2702. Tranh cãi trên mạng xã hội về bản chất của cuộc chiến 1954-1975

RFA

Trường Sơn
2021-08-14

Một số người dùng mạng xã hội Tik Tok và Facebook ở Việt Nam đang tham gia vào một cuộc tranh cãi gay gắt về bản chất của cuộc Chiến tranh Việt Nam. Điều đáng chú ý là cuộc tranh luận này nổ ra chỉ vì một câu trong bài hát Gia tài của mẹ của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Trước đó, một vài người dùng mạng xã hội Tik Tok ở Việt Nam đã dùng bài hát Gia tài của mẹ để làm nhạc nền cho các video của họ, vì là những người có lượng người theo dõi cao nên việc sử dụng bài hát trên đã trở nên thịnh hành, kéo theo đó là lời của bài hát cũng được đem ra mổ xẻ.

Trong đó, câu “20 năm nội chiến từng ngày” được đặc biệt chú ý.

Nhiều người sử dụng mạng xã hội Tik Tok sau đó đã thể hiện sự đồng tình với quan điểm cuộc chiến tranh 1954-1975 là một cuộc nội chiến, trái với quan điểm chính thống mà Nhà nước đưa ra từ trước tới nay, vốn gọi đó là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.

Tranh cãi về tên gọi

Ngay sau đó, những trang Facebook được biết rộng rãi là tuyên truyền quan điểm của Nhà nước, điển hình như trang Tifosi đã đăng đàn chỉ trích những cá nhân sử dụng bài hát Gia tài của mẹ, và những người sử dụng từ nội chiến. Trang này cáo buộc họ là “xúc phạm lịch sử”, “không yêu nước”, và “thiếu hiểu biết”.

Hàng chục ngàn bình luận đã được đưa ra bởi những người phản đối việc gọi cuộc chiến 1954-1975 là nội chiến. Nguyễn Xuân Tài, một bạn trẻ sống ở TP. Hồ Chí Minh là một trong số đó. Trả lời phỏng vấn của RFA, Tài cho biết lý do anh không ủng hộ việc gọi cuộc chiến tranh Nam-Bắc là nội chiến:

Tôi thấy là cái việc mà những người có tầm ảnh hưởng, có những cái nhận định là cuộc chiến này là nội chiến, đối với tôi đó là một quan điểm sai. Bởi vì trong suốt quá trình lịch sử Việt Nam có rất nhiều cuộc nội chiến như là 12 Sứ quân hay là Trịnh-Nguyễn phân tranh, nhưng mà Chiến tranh Việt Nam thì chưa bao giờ là nội chiến cả.

Và cái chính quyền Việt Nam Cộng Hoà ở miền nam nó không được thừa nhận bởi vì nó không phải là một chính quyền do nhân dân lập nên mà là do Mỹ lập nên. Và kể cả trong nhân dân miền nam thì cũng có một chính quyền được nhân dân ủng hộ, đó là Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền nam.”

Nguyễn Xuân Tài cũng cho rằng những người gọi cuộc Chiến tranh Việt Nam là nội chiến rất có thể đã đọc phải những thông tin do Mỹ đưa ra, hoặc thông tin đến từ những người có “tư tưởng phản động”.

Ở chiều ngược lại, cũng không ít người Việt Nam thuộc thế hệ trẻ đã có cái nhìn về cuộc chiến tranh trước năm 1975 thoát ra khỏi khuôn khổ sách giáo khoa. Anh Nguyễn Sơn đến từ Hà Nội cho RFA biết góc nhìn của anh về thời kỳ lịch sử này:

Nó là một cuộc nội chiến nhưng mà cái tính chất của nó lại vượt ra ngoài một cuộc nội chiến thông thường. Nếu tính về chuyện tại sao lại là nội chiến thì nó đúng là vẫn trên cùng một vùng lãnh thổ là Việt Nam nhưng mà chia ra làm hai chính quyền, mỗi chính quyền ở một miền, và hai chính quyền xảy ra một cuộc chiến tranh với nhau để thống nhất. 

Thì cái tính chất nội chiến của nó là do đây là cuộc chiến chủ yếu là giữa người Việt với người Việt.”

Anh Sơn cũng cho rằng Chiến tranh Việt Nam còn là cuộc chiến uỷ nhiệm giữa hai khối ý thức hệ đối nghịch nhau ở thời điểm bấy giờ là khối Cộng Sản và khối Tự Do.  

Từ góc nhìn Công pháp Quốc tế

Cũng có ý kiến cho rằng các cuộc thảo luận về lịch sử ở Việt Nam mang nặng tính ý thức hệ, và có ít không gian cho việc thảo luận học thuật, phần là vì chính sách giáo dục và phần là vì chính sách kiểm duyệt.

RFA phỏng vấn ông Nguyễn Quốc Tấn Trung, chuyên gia công pháp quốc tế, để tìm kiếm một góc nhìn khác nằm ngoài phạm vi ý thức hệ của các bên ở Việt Nam.

Ông Trung cho biết có sự khác nhau về cách gọi tên cuộc chiến ở các thời kỳ và góc độ khác nhau, nhưng trước hết thì cần phải xác định các bên tham chiến là những ai.

“Mình sẽ xác định bên tham chiến là những ai, đầu tiên là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hay còn gọi là Bắc Việt, anh thứ hai là Việt Nam Cộng Hoà hay Nam Việt, rồi chúng ta có Hoa Kỳ và các quốc gia Đồng Minh, và cuối cùng là một cái anh không có tư cách quốc gia giống ba anh còn lại, thì là Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền nam Việt Nam.”

Ông Trung cho biết, theo quan điểm quốc tế thì lực lượng Mặt trận được coi là một lực lượng phiến quân nằm bên trong miền nam Việt Nam, hoạt động với mục đích lật đổ hệ thống chính trị của miền nam Việt Nam, và trong thời kỳ chiến tranh chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã phủ nhận bất cứ sự liên hệ nào giữa họ với lực lượng Mặt trận.

Trong pháp luật quốc tế, khi nói vế tranh chấp thì không sử dụng thuật ngữ kháng chiến hay là chiến tranh vệ quốc, hay là chiến tranh giải phóng, mà nó đưa ra hai khái niệm cụ thể; đầu tiên là xung đột vũ trang quốc tế và thứ hai là xung đột vụ trang phi quốc tế. Thì chúng ta dựa trên tư cách chủ thể của những bên tham chiến để xác định cuộc chiến này là chiến tranh như thế nào.”

Do vậy, nếu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đánh nhau với Hoa Kỳ hoặc Việt Nam Cộng hoà, thì đó sẽ là chiến tranh quốc tế bởi các bên đều có tư cách quốc gia. Còn xung đột giữa Mặt trân Giải phóng Miền nam Việt Nam với Việt Nam Cộng Hoà hoặc Hoa Kỳ thì đây là xung đột phi quốc tế, bởi Mặt trận không có tư cách quốc gia.

Như đã đề cập, trong thời kỳ chiến tranh thì Bắc Việt phủ nhận hoàn toàn bất cứ sự liên quan nào đối với lực lượng Mặt trận, thay vào đó diễn ngôn chính trị được đưa ra ở thời điểm đó là người “dân miền nam đứng lên lật đổ chế độ nguỵ quyền”. Do vậy, cuộc Chiến tranh Việt Nam, theo quan điểm quốc tế, có thể được coi là một cuộc nội chiến giữa các bên ở miền nam Việt Nam.

Người trong cuộc nói gì?

Chiến tranh Việt Nam chính thức kết thúc vào ngày 30 tháng Tư năm 1975, cho đến nay đã là 46 năm. Tuy nhiên, những cuộc tranh luận về đề tài này vẫn có sức nóng như thể nó mới xảy ra.

Thế hệ trẻ ở Việt Nam hiện tại đều sinh ra sau cuộc chiến, không biết chiến tranh là gì, nên khó tránh bị tác động bởi các chính sách tuyên truyền.

Một cựu sĩ quan tình báo giấu tên, thuộc Cụm tình báo A10 khét tiếng của Bắc Việt hoạt động tại Sài Gòn trong thời chiến, cho RFA biết quan điểm của ông về cách mà thế hệ trẻ nên tiếp cận các vấn đề lịch sử:

Tôi bây giờ là tôi không đặt vấn đề là nhìn lại để nói trắng nói đen cái lịch sử ra nó là cái cuộc chiến tranh gì, tôi không đặt vấn đề đó! Không cần hai bên phải đi ký một cái điện bàn gì về quá khứ. Cái đó để cho quá khứ trôi vào dĩ vãng thế thôi vì bây giờ thực tế hai bên có thù hận gì nhau đâu.

Tôi đây này, nghĩa là một tiểu đội ba người thôi, đánh quân của Mỹ đổ bộ vô trong căn cứ của trung ương cục, người Mỹ chết, tụi nó khóc la rồi trên máy bay trực thăng nó xịt mưa xuống cho nó tắm rồi này kia, rồi pháo mình đánh. Nhưng mà cuối cùng bây giờ hai bên ôm nhau vui.

Theo tôi, quan niệm của tôi đối với lớp trẻ là hãy nhìn về phía trước. Nếu các em có học giỏi, có cơ hội, có điều kiện để đi Mỹ được, để đi du học được thì cứ việc đi. Qua đó học tập và nếu như cái ngành nghề đó mà không về Việt Nam phục vụ được thì cứ phục vụ ở bển, còn ngành nghề đó mà về Việt Nam được thì cứ về Việt Nam, tuỳ!”

Vị cựu sĩ quan này cũng cho rằng hiện nay Mỹ đang là quốc gia giúp đỡ Việt Nam rất nhiều, đặc biệt là trong nỗ lực chống lại dịch bệnh COVID-19 và vấn đề Biển Đông. Người trẻ Việt Nam cần tăng cường giao lưu với Mỹ để củng cố mối quan hệ giữa hai quốc gia.


Ba Sàm bổ sung:


Ba mươi năm gọi tên gì cho cuộc chiến?

BBC

Giáo sư Lê Xuân Khoa

Maryland, Hoa Kỳ, viết vào Xuân Ất Dậu (2005)

15/02/2005

Cuộc chiến 1945-1954 giữa thực dân Pháp và các phong trào kháng chiến giành độc lập của các dân tộc Việt Nam, Cam-pu-chia và Lào thường được các nhà viết sử gọi chung là chiến tranh Đông Dương.

Đối với từng quốc gia Đông Dương, cuộc chiến này còn mang những tên khác nhau nhưng cùng một ý nghĩa.Thư của GS. Lê Xuân Khoa gửi các độc giả đài BBC

Chẳng hạn trong trường hợp Việt Nam, đây là chiến tranh giành độc lập, chiến tranh chống đế quốc Pháp hay ngắn gọn hơn, chiến tranh Việt-Pháp. Tất cả những cách gọi tên này đều đúng và không có gì cần phải tranh luận. Khi cuộc chiến 1955-1975 tiếp diễn trên lãnh thổ Đông Dương được gọi là chiến tranh Đông Dương lần thứ hai thì cách gọi không sai nhưng nội dung của nó không đơn giản như lần trước, vì thành phần tham chiến và thời gian chiến tranh ở mỗi quốc gia Đông Dương không giống nhau.

Trên chiến trường Đông Dương, Hoa Kỳ thay thế Pháp nhưng chỉ trực tiếp tham chiến ở Việt Nam từ 1965 đến 1972 và hỗ trợ những lực lượng chống cộng sản ở Lào và Cam-pu-chia. Ngay cả những cuộc dội bom ở hai quốc gia này cũng không ngoài mục đích chính là ngăn chặn Bắc Việt sử dụng lãnh thổ hai nước láng giềng làm căn cứ tiếp viện cho bộ đội côïng sản ở miền Nam.

Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất được giải quyết chính thức và toàn bộ bởi Hiệp định Genève 1954 với Việt Nam là trọng điểm. Trong chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, tình trạng ba nước Lào, Việt Nam và Cam-pu-chia đuợc quốc tế giải quyết vào ba thời điểm cách xa nhau: Lào bằng Hiệp định Genève năm 1962, Việt Nam bằng Hiệp định Paris năm 1973, và Cam-pu-chia bằng Hiệp định Paris năm 1991. Mặc dù những đặc tính khác biệt đó, gọi cuộc chiến tranh 1955-1975 là chiến tranh Đông Dương lần thứ hai cũng vẫn đúng trong ý nghĩa tổng quát của chiến trường.

Trong trường hợp Việt Nam, vấn đề gọi tên cuộc chiến sau hiệp định Genève 1954 đã được tranh cãi dai dẳng cho đến nay, ba mươi năm sau chiến tranh, vẫn chưa đạt được đồng thuận. Những quan điểm bất đồng được xoay quanh nhiều tên gọi: chiến tranh chống cộng, chiến tranh chống Mỹ-Ngụy, nội chiến, chiến tranh của Mỹ, chiến tranh Việt Nam, chiến tranh ủy nhiệm. Bỏ qua một bên chiến tranh “chống cộng” và “chống Mỹ-Ngụy” chỉ thích hợp trong thời chiến, ở đây chỉ cần thảo luận về bốn tên gọi còn lại thường được tranh cãi nhiều nhất.

Cuộc chiến 1955-1975 ở Việt Nam được gọi là nội chiến vì sau khi đất nước bị chia đôi, chính quyền miền Bắc đã để lại cán bộ, chôn dấu vũ khí và hoạt động bí mật đàng sau các phong trào tranh đấu ở miền Nam; trong khi đó, chính quyền Ngô Đình Diệm cũng phát động chiến dịch tố cộng sâu rộng và mãnh liệt. Đảng cộng sản phản công bằng những hành động khủng bố và ám sát các viên chức Việt Nam Cộng Hoà. Đầu năm 1959 thì miền Bắc bắt đầu mở đường xâm nhập bộ đội và vũ khí vào miền Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh và phát động công cuộc đấu tranh vũ trang với phong trào “Đồng khởi”.

Năm 1960, Mặt trận Giải phóng miền Nam ra đời được miền Bắc hỗ trợ kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang ở các tỉnh miền Nam. Năm 1963, sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ, tình hình chính trị và quân sự ở miền Nam càng ngày càng tồi tệ dẫn đến việc Mỹ quyết định đưa quân vào yểm trợ quân đội VNCH nhưng thực tế nắm vai trò chủ động. Đây là giai đoạn “Mỹ hoá” cuộc chiến cho tới năm 1969 thì chính quyền Nixon trở lại chương trình “Việt Nam hoá” chiến tranh và bắt đầu rút quân về nước. Trận chiến quốc-cộng tiếp tục cho tới khi miền Nam hoàn toàn sụp đổ vào tháng Tư 1975.

Cuộc nội chiến vì lý tưởng khác biệt, cộng sản và không cộng sản, có mầm mống từ những năm cuối thập kỷ 1920 khi Việt Nam Quốc Dân Đảng do Nguyễn Thái Học cầm đầu được thành lập năm 1927 và Đảng Cộng Sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc thành lập ở Hong Kong năm 1930. Sự khác biệt ban đầu về chủ trương chỉ trở thành đối nghịch (nhưng chưa giết hại nhau) sau khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái của VNQDĐ bị thất bại năm 1930 và phong trào Xô-viết Nghệ Tĩnh của ĐCSVN bị Pháp dẹp tan năm 1931 khiến những người còn sống sót của hai đảng đều phải bỏ chạy sang Tàu.

Vì sống chung dưới chính thể Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch, các đảng viên cộng sản Việt Nam đều phải hoạt động âm thầm trong khi các lãnh tụ không cộng sản thì hoạt động công khai với sự giúp đỡ của Trung Hoa Quốc Dân Đảng (THQDĐ), một số còn được đào tạo tại trường quân sự Hoàng Phố ở Quảng Châu và lên đến cấp tướng trong quân đội Trung Hoa.

Nhược điểm của các đảng phái quốc gia là không có tổ chức qui củ và đường lối minh bạch, chỉ trông cậy vào sự che chở của THQDĐ để chống Pháp trong khi Trung Hoa dù không ưa Pháp nhưng đang là đồng minh của Pháp chống Nhật ở Đông Dương. Các lãnh tụ quốc gia lại không đoàn kết được với nhau trong khi không có hoạt động gì đáng kể ở trong nước.

Tình trạng đó kéo dài cho đến khi THQDĐ quá thất vọng với các phe nhóm quốc gia nên đã giúp cho Hồ Chí Minh đại diện Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội đưa người về Việt Nam tăng cường hoạt động chống Nhật năm 1944. Nhân dịp này Hồ Chí Minh củng cố được Mặt Trận Việt Minh thành lập từ năm 1941.

Cuộc tranh chấp giữa các đảng phái quốc gia và Việt Minh trở thành những cuộc thanh toán đẫm máu giữa đôi bên trong năm 1946 và lực lượng quốc gia đã bị tiêu diệt gần hết trước khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ trên toàn quốc vào cuối năm đó. Việt Minh hoàn toàn lãnh đạo cuộc chiến chống Pháp và cuộc xung đột quốc-cộng chỉ tái diễn chính thức và qui mô sau khi đất nước bị chia đôi và chính thể Việt Nam Cộng Hòa được thành lập ở miền Nam.

Mặc dù cuộc xung đột 20 năm giữa những người Việt Nam cộng sản và không cộng sản đã rõ ràng là một cuộc nội chiến có gốc rễ sâu xa, tên gọi này vẫn không được giới lãnh đạo miền Bắc chấp nhận. Để xây dựng và bảo vệ chính nghĩa của mình, nhà nước cộng sản đã gọi cuộc chiến này là chiến tranh chống Mỹ cứu nước hay chiến tranh chống Mỹ-Ngụy. Sau chiến tranh, vì nhu cầu bang giao, thì gọi là chiến tranh của Mỹ hay do Mỹ gây ra (American war), nhất là trong trường hợp sử dụng tiếng Anh. Cách gọi “American war” còn có ngụ ý nhắc nhở lỗi lầm của Hoa Kỳ và phủ nhận cách gọi của người Mỹ là “Vietnam war” (chiến tranh Việt Nam).

Trong một cuộc trao đổi ý kiến gần đây giữa một số học giả quốc tế gồm cả người Mỹ và Mỹ gốc Việt, có người đã dùng tên gọi “American war” để chỉ định cả hai cuộc chiến trong thời gian từ 1945 đến 1975, vì ngoài việc viện trợ và tham chiến trực tiếp trong cuộc chiến lần thứ hai, chính phủ Mỹ đã viện trợ tiền bạc và vũ khí cho Pháp trong suốt cuộc chiến lần thứ nhất. Nhưng nếu đặt tên chiến tranh bằng tên của quốc gia viện trợ thì cũng phải gọi tên cuộc chiến này là chiến tranh của Liên Xô và Trung Quốc vì hai nước này đã viện trợ kinh tế và quân sự rất quan trọng cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Cũng hiểu theo cách rộng rãi như thế thì cuộc chiến lần thứ hai phải được gọi là chiến tranh của Mỹ và các đồng minh Úc, Tân Tây-Lan, Đại Hàn, Phi- Luật-Tân và Thái Lan. Bởi vậy không nên đặt tên chiến tranh bằng tên của những quốc gia viện trợ hay dự phần vào cuộc chiến, mặc dù có lý do chính đáng để gọi giai đoạn Mỹ hoá chiến tranh (1965-1972) là “American war”.

Cũng nên ghi nhận là Mỹ bắt đầu rút quân từ 1969, và tên gọi “Vietnam war” chỉ có nghĩa là chiến tranh ở Việt Nam chứ không phải là “Vietnamese war” tức là chiến tranh của Việt Nam hay do Việt Nam gây ra.

Đáng chú ý là phần lớn các tổ chức chính trị trong cộng đồng người Việt hải ngoại cũng không chấp nhận tên gọi cuộc chiến 1955-1975 là “nội chiến”, khẳng định rằng đây là cuộc chiến của dân tộc Việt Nam chống lại chủ nghĩa và chế độ cộng sản độc tài.

Như trên đã nói, đây là cách gọi tên theo lập trường chính trị chẳng khác gì phía cộng sản đã gọi đây là cuộc chiến tranh nhân dân chống ngụy quân ngụy quyền. Những tên gọi này chỉ có giá trị nhất định đối với mỗi bên trong những năm đang có chiến tranh mà thôi.

Sau hết, cần bàn về “chiến tranh ủy nhiệm”. Tên gọi này phản ánh một sự thật hoàn toàn khách quan nhưng không một quốc gia tham chiến nào, trực tiếp hay gián tiếp, muốn chấp nhận nó để phải mang tiếng xấu.

Gọi là ủy nhiệm vì từ cuộc xung đột về ý thức hệ, hai phe Việt Nam đã bị các cường quốc lãnh đạo hai khối tư bản và cộng sản sử dụng như những công cụ đua tranh thế lực trong thời Chiến tranh Lạnh. Hoa Kỳ đã dùng chiến trường Việt Nam để thí nghiệm và tiêu thụ các loại vũ khí kể cả chất độc da cam, trong khi Liên Xô và Trung Quốc đã nhiệt tình giúp đỡ và thúc giục Bắc Việt tận lực hi sinh và chiến đấu trường kỳ.

Các quan sát viên quốc tế hồi đó đã có một nhận xét rất đúng về dụng ý của Trung Quốc khi viện trợ cho Việt Nam: “Trung Quốc đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng.”

Quả thật, giải pháp chấm dứt chiến tranh Đông Dương đều do các nước lớn sắp đặt sẵn với nhau rồi ép buộc đồng minh Việt Nam, cộng sản hay quốc gia, phải chấp thuận.

Các nhà ngoại giao Hà Nội tại những phiên họp hậu chiến Việt-Mỹ từ 1995 đến 1998 cũng như các sách vở lịch sử ở Việt Nam đều xác nhận điều này. Cố ngoại trưởng Trần Văn Đỗ cũng than phiền rằng tại hội nghị Genève 1954, Pháp đã không cho phái đoàn quốc gia biết cuộc thảo luận của các nước lớn về việc chia cắt Việt Nam và ông đã được Phạm Văn Đồng mời họp riêng để tìm giải pháp giữa hai bên người Việt với nhau nhưng không thực hiện được. Nhờ mâu thuẫn Liên Xô-Trung Quốc, nhờ phong trào phản chiến rầm rộ của dân chúng Mỹ và lợi thế chính trị đặc biệt sau khi Tổng thống Johnson tuyên bố không tái ứng cử năm 1968, Việt Nam cộng sản đã tránh được sự áp đặt của “các nước bạn” trong tiến trình hội nghị “hai phe bốn phái đoàn” ở Paris (1968-1973).

Như vậy, sau khi đã gạn lọc lập trường chính trị của mỗi bên để xác định bản chất thật sự của nó trong lịch sử, cuộäc chiếán 1955-1975 phải được gọi là một cuộc nội chiến đồng thời là chiến tranh ủy nhiệm.

Con dân một nước cùng một dòng giống-thực tế thì hầu như gia đình nào cũng có bà con gần hay xa ở phía bên này hay/và bên kia-đã tàn sát lẫn nhau ít nhất là trong hai mươi năm, vì lý tưởng khác nhau mà không hoàn toàn do mình chủ động.

Tổng số người Việt Nam thiệt mạng riêng trong cuộc chiến này, kể cả quân và dân của cả hai bên, lên tới gần bốn triệu người. Riêng bộ đội cộng sản còn có khoảng 300,000 người chưa tìm được xác. Đất nước và tài sản của dân chúng cả hai miền đều bị chiến tranh tàn phá đến mức độ chưa từng thấy trong lịch sử, cho đến nay vẫn còn những di hại của bom, mìn chưa nổ và chất thuốc khai quang.

Trong chiến tranh ủy nhiệm, phía Việt Nam quốc gia phải chịu sức ép của đồng minh Hoa Kỳ cho tới những ngày chót của hội nghị Paris. Từ 1965, Hoa Kỳ hoàn toàn lãnh đạo cuộc chiến cho tới 1969 mới bắt đầu giai đoạn chuyển tiếp Việt Nam hoá chiến tranh, nhưng vẫn nắm quyền định đoạt các phương tiện chiến đấu, không theo nhu cầu của giới chỉ huy quân sự Việt Nam.

Từ sau hiệp định Paris 1973 thì Quốc Hội Hoa Kỳ lại mạnh tay cắt giảm viện trợ kinh tế và quân sự khiến cho miền Nam phải sụp đổ mau chóng hơn cả kế hoạch dự liệu của các chiến lược gia Hà Nội.

Trong khi đó, mặc dù khéo khai thác mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc để được cả hai đồng minh lớn đua nhau viện trợ, Việt Nam cộng sản cũng không tránh khỏi áp lực của mỗi “nước bạn”, nhất là sự kiểm soát và ngăn chặn của Trung Quốc đối với những toan tính ngoại giao độc lập của Việt Nam. Hà Nội dứt khoát đi với Liên Xô khi ký Hiệp ước Hợp tác và Hữu Nghị với Aleksei Kosygin vào tháng Mười Một năm 1978 và gần như hoàn toàn trông cậy vào viện trợ của Liên Xô cho đến khi Mikhail Gorbachev và những chính quyền kế tiếp không còn có mối quan tâm chiến lược ở Việt Nam và khu vực Đông Nam Á.

Người Việt Nam cộng sản và không cộng sản đều đã có quá nhiều kinh nghiệm về quan hệ hợp tác với các đồng minh của mình để thấy rằng đồng minh nào cũng chỉ ủng hộ một nước bạn chừng nào sự ủng hộ ấy phù hợp với lợi ích riêng của họ chứ không phải vì cùng theo đuổi một lý tưởng chung.

Sau chiến tranh, bài học ấy có thể là một động cơ cho phe thắng trận tập hợp được khả năng của toàn dân vào công cuộc tái thiết và phát triển đất nước thời hậu chiến. Nhưng chính sách sai lầm của các nhà lãnh đạo miền Bắc đối với miền Nam đã làm tê liệt những đóng góp quan trọng của một nửa dân số toàn quốc trong mười mấy năm cho đến đầu thập kỷ 1990 mới thực sự chuyển hướng.

Riêng đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, nhà cầm quyền trong nước đã sớm nhận ra khả năng đóng góp to lớn của tập thể này vào công cuộc phục hồi kinh tế cũng như những tiềm năng trí tuệ có thể đẩy mạnh tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.

Thái độ đối với tập thể này thay đổi hẳn, từ việc kết tội người tị nạn là “những kẻ phản bội” đến sự công khai nhìn nhận họ là “một nguồn lực phát triển quan trọng của dân tộc.” Tuy nhiên, trong khi kêu gọi cộng đồng hải ngoại dẹp bỏ quá khứ, hướng tới tương lai để cùng chung sức xây dựng và bảo vệ quê hương, Nhà nước vẫn chỉ ban hành những biện pháp cởi mở hạn chế nhằm đáp ứng lợi ích vật chất nhỏ nhặt mà chưa thật tình hòa giải trong tinh thần bình đẳng.

Vì thế những đóng góp chất xám của công dân ngoại quốc gốc Việt chưa vượt qua mức tối thiểu và các phong trào chống đối chính quyền trong các cộng đồng ở hải ngoại vẫn còn rất mạnh.

Lịch sử Việt Nam là một thiên hùng sử của một dân tộc hàng ngàn năm tranh đấu chống ngoại xâm và bảo vệ độc lập cho tổ quốc. Cho đến đầu thế kỷ 20, do ảnh hưởng của Tây phương, các đảng phái quốc gia và cộng sản ra đời cũng đều hoạt động chống đế quốc thực dân để giành lại độc lập. Biết bao nhà cách mạng, cộng sản hay không cộng sản, trí thức hay lao động, đã bị chính quyền Pháp bắt bớ, tù đày và sát hại. Chỉ đến khi tranh giành quyền lãnh đạo dân tộc thì hai bên mới lâm vào cảnh huynh đệ tương tàn và bị các nước lớn sử dụng trong một cuộc chiến tranh ủy nhiệm.

Trong cuộc chiến này, phe cộng sản vì nhiều lý do đã thắng phe quốc gia nhưng điều đó không có nghĩa là chỉ có kẻ thắng trận mới là người yêu nước. Gần đây, một nhà sử học ở Hà nội đã nhắc đến những nhân vật yêu nước không cộng sản như Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, và đã có những nhận định xác đáng: “Chủ nghĩa yêu nước thì khác nhau nhưng lòng yêu nước thì ai cũng có. . . . Tôi nghĩ rằng con người rất phức tạp, hoàn cảnh lịch sử càng phức tạp. Nếu chúng ta không đánh giá lòng yêu nước rạch ròi, chúng ta sẽ ngộ nhận, chúng ta sẽ độc quyền yêu nước.”

Ba mươi năm sau chiến tranh, đã đến lúc chính quyền trong nước và cộng đồng hải ngoại cần phải nhận ra thực chất của cuộc chiến, ôn lại những bài học quá khứ và nhìn nhận nhau với những trao đổi bình đẳng hai chiều để có thể cùng góp công xây dựng một nước Việt Nam giàu, mạnh và dân chủ, hội nhập thành công vào cộng đồng thế giới và có đủ khả năng đối phó với những đe dọa mới từ phương Bắc.

Giữa hai bên, những bước đầu tiên cần phải được thực hiện bởi chính quyền trong nước một cách thật tình và cụ thể. Một khi thiện chí ấy đã được chứng tỏ, cộng đồng hải ngoại cũng cần phải đáp ứng tích cực.

Trở lại vấn đề gọi tên cuộc chiến 1955-1975, để các phe liên hệ có thể vượt lên khỏi những ám ảnh tiêu cực của quá khứ và chấm dứt những cuộc tranh luận do tình cảm chủ quan, cuộc chiến này nên được gọi đơn giản là “chiến tranh Việt Nam” với ý nghĩa khách quan phi chính trị là chiến tranh xảy ra trên đất nước Việt Nam. Nội dung phức tạp của nó sẽ được lịch sử ghi chép một cách đầy đủ và trung thực.

…………………………………………………………………………….

Về tác giả: Giáo sư Lê Xuân Khoa là cựu Chủ tịch Trung Tâm Tác Vụ Ðông Nam Á (SEARAC) và là giáo sư thỉnh giảng tại trường Cao học Nghiên cứu Quốc tế thuộc Ðại học Johns Hopkins, Washington, D.C.

Tác phẩm nghiên cứu của ông, “Việt Nam 1945 – 1995: Chiến tranh, tị nạn, bài học lịch sử”, đã ra mắt tập Một vào năm ngoái. Địa chỉ email của GS. Lê Xuân Khoa: Lxkhoa@hotmail.com

Ý kiến thính giả về bài viết của giáo sư Lê Xuân Khoa xin gửi về vietnamese@bbc.co.uk hoặc dùng hộp tiện ích bên tay phải.

2 comments

  1. Bi giờ tới ông giáo sư trở cờ Lê Xuân Khoa

    “Tình trạng đó kéo dài cho đến khi THQDĐ quá thất vọng với các phe nhóm quốc gia nên đã giúp cho Hồ Chí Minh đại diện Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội đưa người về Việt Nam tăng cường hoạt động chống Nhật năm 1944. Nhân dịp này Hồ Chí Minh củng cố được Mặt Trận Việt Minh thành lập từ năm 1941”

    Kính thưa gs Lê Xuân Khoa, nhận định của ông rất ư là bô (full of) xít ạ . Ông hổng nghía tới đảng Cộng Sản Trung Quốc đang hoạt động bí mật lúc đó ở Trung Hoa, có nghĩa Đảng của Bác Hồ & Đảng của Bác Mao tồn tại song song . Và theo như lời tường thuật lại, cant tell them apart for a long while. Chiện Bác quân, lộn, quân Bác nhập Việt là do Mao đưa lối, Đặng đưa đường, Kang-Seng. Báo Trung Quốc cũng chỉ rõ ngôi nhà mà Bác Hồ yêu quý của chúng ta trú ngụ trước khi nhập Việt là 1 safe-house của tình báo Trung … ok thì … Cộng .

    Hổng ngờ bác cũng trở thành trí thức đúng nghĩa, tức là yêu Đảng cũng là yêu nước . Só-zi, lòng kính trọng của tớ có điều kiện & thay đổi như chong chóng .

    “đất nước bị chia đôi”

    Có thỉa đ/v ô giáo sư Lê Xuân Khoa là “bị”, theo tớ là “được”. we can all agree to disagree.

    “chiến tranh của Liên Xô và Trung Quốc vì hai nước này đã viện trợ kinh tế và quân sự rất quan trọng cho chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”

    Bác í thông minh đột xuất

    “khẳng định rằng đây là cuộc chiến của dân tộc Việt Nam chống lại chủ nghĩa và chế độ cộng sản độc tài. Như trên đã nói, đây là cách gọi tên theo lập trường chính trị chẳng khác gì phía cộng sản đã gọi đây là cuộc chiến tranh nhân dân chống ngụy quân ngụy quyền”

    Rất đồng ý với bác . Theo lời nhà văn Nguyên Ngọc bợ đít nhà trí thức Cao Huy Thuần, thì CHT cũng chống “độc tài”. Vả lại chủ nghĩa Cộng Sản hổng độc tài . Ô LXK có cái lý của con cá sặc . Cái lý con cá sặc cũng là cái lý, mặc dù là cái lý con cá sặc .

    “Quả thật, giải pháp chấm dứt chiến tranh Đông Dương đều do các nước lớn sắp đặt sẵn với nhau rồi ép buộc đồng minh Việt Nam, cộng sản hay quốc gia, phải chấp thuận”

    you got a better solution, mofo?

    “Cố ngoại trưởng Trần Văn Đỗ cũng than phiền rằng tại hội nghị Genève 1954, Pháp đã không cho phái đoàn quốc gia biết cuộc thảo luận của các nước lớn về việc chia cắt Việt Nam và ông đã được Phạm Văn Đồng mời họp riêng để tìm giải pháp giữa hai bên người Việt với nhau nhưng không thực hiện được”

    Ô Nguyễn Văn Thiệu lúc đó hình như còn là cấp đại úy, nên phải chờ lên tổng thống, những gì ổng nói mới có người để ý . it aint gs Lê Xuân Khoa nhà mềnh . i mean Đamn, miền Nam mất vì có quá nhiều loại trí thức như cục phân kiểu này .

    “Người Việt Nam cộng sản và không cộng sản đều đã có quá nhiều kinh nghiệm về quan hệ hợp tác với các đồng minh của mình để thấy rằng đồng minh nào cũng chỉ ủng hộ một nước bạn chừng nào sự ủng hộ ấy phù hợp với lợi ích riêng của họ chứ không phải vì cùng theo đuổi một lý tưởng chung”

    Cho phép tớ phản biện cái lày . Nhận định trên của ô LXK chỉ đúng với Mỹ . Nhưng với Liên Xô & Trung Quốc ông sai bét be . Ngay cả khi xảy ra cuộc nội chiến 1979, cũng bám chặt lấy lý tưởng . Đơn giản vì 1 phía cho rằng phía bên kia đã phản bội lại lý tưởng . Không trách được . Nhìn lại Trần Độ thì biết phản bội lý tưởng sẽ phải chịu cái gì . Gọc Ba Chớp, chỉ khi phản bội lý tưởng mới lờ lớ lơ sư phụ của Lê Đăng Doanh, chớ thời Brezhnev, vưỡn là bạn vàng nhá . Và sau đó thì ta khép lợi quá khứ, Đặng Tiểu Bình lại trở thành bạn của Đảng Ta .

    Rất mầng càng về già, chữ nghĩa của ông càng giống trí thức xã hội chủ nghĩa . Tớ sẽ đối xử với ông as one of them.

    “Vì thế những đóng góp chất xám của công dân ngoại quốc gốc Việt chưa vượt qua mức tối thiểu và các phong trào chống đối chính quyền trong các cộng đồng ở hải ngoại vẫn còn rất mạnh”

    Đảng nên nghe theo lời khuyên này của gs LXK. Nhìn lại đi, các tổ chức phản động trong nước đều có liên kết với “các phong trào chống đối chính quyền trong các cộng đồng ở hải ngoại”. Việt Nam Thời Báo, Bô (full of) xít … to name a few. Níu Đảng cởi mở hơn sẽ bớt đi “các phong trào chống đối chính quyền trong các cộng đồng ở hải ngoại”, và từ đó những tổ chức chống đối trong nước sẽ bị cắt khỏi nguồn hỗ trợ chính, cả zìa kinh tía lẫn kỹ thuật . Lấy ví dụ Việt Nam Thời Bác & Luật Khoa, níu hổng có bầu sữa mẹ từ “các phong trào chống đối chính quyền trong các cộng đồng ở hải ngoại”, chít cmnr. VNTB với Phạm Chí Dũng & Nguyễn Tường Thụy bị chặt đầu, hiện lên là 1 Hydra, và cái đầu sinh tử của nó nằm ở hải ngoại .

    “nhưng điều đó không có nghĩa là chỉ có kẻ thắng trận mới là người yêu nước”

    Nhưng ít nhứt là họ hổng bán nước . Và cũng có nghĩa những kẻ thắng trận iu nước hơn, chong khi bên thua mãi mãi ngậm ngùi với mặc cảm kém iu nước . Chính vì vậy mà họ bỏ phiếu đá đít vị Tổng thống do Chúa of Darkness phái xuống .

    “đã đến lúc chính quyền trong nước và cộng đồng hải ngoại cần phải nhận ra thực chất của cuộc chiến (tớ thim) theo cách hiểu của gs LXK”.

    “đối phó với những đe dọa mới từ phương Bắc”

    “đe dọa mới từ phương Bắc” You Phúc Kđinh xíttin me? Dân Saigon chính gốc gần hoàn toàn tuyệt chủng, bi giờ chỉ còn loại dân Saigon ghét cay ghét đắng, bọn nằm vùng, bọn 30/4 … và bọn Bắc 75 cho tới nay . Them already here. Từ hồi 75, dân Saigon đã phải sống chung với giặc, và kết quả là giặc chiếm đại đa số . Đe dọa mới nào nữa mà đối phó ?

    “để các phe liên hệ có thể vượt lên khỏi những ám ảnh tiêu cực của quá khứ và chấm dứt những cuộc tranh luận do tình cảm chủ quan”

    Aka dẹp hít . Lịch sử hổng mất tiền mua, lựa lời mà viết Sử cho vừa lòng Đảng

    Cái lý con cá sặc vẫn là cái lý, albeit, cái lý con cá sặc .

    Thích

  2. Thim 2 tên nữa . Ngụy có phải là 1 chính quyền được quấc tía công nhận hông ? Ngụy có phải là 1 quấc gia được quấc tía công nhận hông ? Có thì cuộc chiến này mang ý nghĩa xâm lược .

    Còn níu xem miền Nam là Ngụy thì có thỉa xem đây là cuộc chiến đấu giải phóng đất nước .

    ““Mình sẽ xác định bên tham chiến là những ai, đầu tiên là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hay còn gọi là Bắc Việt, anh thứ hai là Việt Nam Cộng Hoà hay Nam Việt, rồi chúng ta có Hoa Kỳ và các quốc gia Đồng Minh”

    Thiếu Trung Quốc . Níu thẩy Trung Quốc zô cái nồi lẩu là bộ não của ô Nguyễn Quốc Tấn Trung, sẽ nhận ra đây là 1 cuộc chiến giải phóng . Lê Chiêu Thống sát cánh với Tôn Sĩ Nghị đi dẹp loạn Tây Sơn .

    “hiện nay Mỹ đang là quốc gia giúp đỡ Việt Nam rất nhiều, đặc biệt là trong nỗ lực chống lại dịch bệnh COVID-19 và vấn đề Biển Đông”

    Trung Quốc cũng vậy, trong cả nỗ lực chống Covid & vấn đề biển Đông . Mình chống dịch đây cũng là chống cho Trung Quốc . Và để đổi lại, Trung Quốc đang làm rất tốt nhiệm vụ bảo vệ biển trời của Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa . Quân lụi nhân dân Việt Nam làm được con cá sặc gì .

    Đọc “Trang 394 câu: “Thất thủ Buôn Mê Thuột, quân ta mở toang cánh cửa thép tiến thẳng xuống đồng bằng, trực tiếp uy hiếp Đà Nẵng…”. Tác giả đứng về phía “quân ta” nhưng lại viết “Thất thủ Buôn Mê Thuột…”, tức là theo góc nhìn của quân đội Sài Gòn” (tớ thim) tức là quân đội Ngụy . Và “quân ta” tức, theo nhà báo Huy Đức, là “quân đội nhân dân Việt Nam”. Có nghĩa hổng phải “quân ta” thì hổng xứng đáng với danh hiệu “Việt Nam”. Hehe.

    Thích

Nhận xét về chienda dietkiennghi Hủy trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.