
Ba giảng viên đại học Việt Nam đặt vấn đề mạnh mẽ với một bài viết, trong mục quan điểm, trên tạp chí Asia Times gần đây
ASIA TIMES by TRAN HUU DUY MINH, HOANG THI NGOC ANH And NGUYEN HAI DUYENSEPTEMBER 28, 2021
(Trần Hữu Duy Minh, Hoàng Thị Ngọc Anh và Nguyễn Hải Duyên là giảng viên Khoa Luật Quốc tế, Học viện Ngoại giao Việt Nam.)
Ba Sàm lược dịch
Trong một bài báo được Asia Times đăng tải gần đây, Mark Valencia khẳng định rằng Trung Quốc không phải là bên sai trái duy nhất ở Biển Đông mà Việt Nam cũng vậy. Quan điểm này đã hiểu sai chính sách của Trung Quốc ở Biển Đông.
Trung Quốc không chỉ vi phạm các quyền hàng hải của các quốc gia khác mà còn bác bỏ một cách có hệ thống Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS).
Trung Quốc duy trì các yêu sách hàng hải rõ ràng là không phù hợp với UNCLOS. Họ phủ nhận các phán quyết của Trọng tài về Biển Đông, là phán quyết cuối cùng và có ràng buộc. Họ sử dụng những lợi thế của một quốc gia hùng mạnh hơn, để thực hiện mạnh mẽ các yêu sách hàng hải trái pháp luật của mình ở Biển Đông, và làm xáo trộn hoạt động khai thác bình thường và hợp pháp các nguồn tài nguyên của các quốc gia khác trong các vùng biển của họ.
Ngược lại, tôn trọng luật pháp quốc tế, bao gồm cả UNCLOS, vẫn là nền tảng cho lập trường của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) liên quan đến Biển Đông.
Năm 2020, dưới sự chủ trì của Việt Nam, các Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 36 và 37 đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tôn trọng luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS, ở Biển Đông. Do đó, các vi phạm của Bắc Kinh ở Biển Đông là vấn đề nguyên tắc, không phải là về mức độ.
Hơn nữa, Trung Quốc phải chịu chịu trách nhiệm về việc thay đổi đáng kể hiện trạng ở Biển Đông. Từ năm 2013 đến năm 2015, họ đã xây dựng bảy hòn đảo nhân tạo, cải tạo đất trong vòng 20 tháng nhiều gấp 17 lần so với tất cả các bên tranh chấp khác cộng lại trong 40 năm qua, chiếm 95% tổng số đất khai hoang ở quần đảo Trường Sa.
Tòa Trọng tài năm 2016 xác định rằng, việc Trung Quốc cải tạo đất ở quần đảo Trường Sa đã gây ra tác hại không thể khắc phục đối với môi trường biển và do đó đã vi phạm nghĩa vụ bảo vệ và giữ gìn môi trường biển theo UNCLOS. Trung Quốc cũng đang xây dựng các căn cứ quân sự lớn trên các đảo này với mục đích kiểm soát toàn bộ Biển Đông.
Đối với Việt Nam, lối chơi hầu như không thay đổi trong ba thập kỷ. Tiền đồn cuối cùng của nước này được lập cách đây hơn 30 năm, vào năm 1988.
Mark Valencia đã tuyên bố trong bài báo của mình rằng Việt Nam đã bác bỏ các yêu sách hợp pháp của Trung Quốc ở Biển Đông. Đó là sự hiểu lầm về lập trường của Việt Nam. Việt Nam công nhận các yêu sách của Trung Quốc miễn là các yêu sách đó phù hợp với UNCLOS.
Trên thực tế, hai quốc gia đã ký kết một thỏa thuận phân định vùng biển trong Vịnh Bắc Bộ, mà cả hai bên đều có yêu sách tương thích với UNCLOS. Năm 2011, Việt Nam và Trung Quốc đã ký một thỏa thuận sáu điểm nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết các vấn đề hàng hải còn tồn tại giữa hai quốc gia. Họ nhất trí rằng các cuộc đàm phán của hai bên sẽ được tiến hành “dựa trên khuôn khổ pháp lý và các nguyên tắc được luật pháp quốc tế thừa nhận, bao gồm cả Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.”
Tuy nhiên, trên Biển Đông, Trung Quốc duy trì các tuyên bố chủ quyền biển trái pháp luật, bằng cách giải thích luật pháp quốc tế theo cách riêng của họ. Với mục đích đạt được nhiều hơn những gì họ có thể khẳng định theo UNCLOS 1982, Trung Quốc tuyên bố cái gọi là “quyền lịch sử” theo tập quán ở Biển Đông, vốn đã bị Tòa Trọng tài về Biển Đông bác bỏ.
Những tuyên bố bất hợp pháp đó đã liên tục bị các quốc gia trên thế giới phản đối (chỉ cần xem các ghi chú bằng lời của hàng chục quốc gia gần đây đã được gửi tới tổng thư ký Liên hợp quốc, bao gồm Malaysia, Indonesia, Philippines, Australia, Nhật Bản, New Zealand, Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Pháp và Đức).
Khi nói đến Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC), các cuộc đàm phán đang bị trì hoãn bởi những đề xuất không thể chấp nhận được của Trung Quốc. Bắc Kinh khẳng định rằng việc thăm dò và khai thác dầu khí của các nước ASEAN ở Biển Đông “sẽ không được tiến hành với sự hợp tác của các công ty từ các nước ngoài khu vực”.
Trung Quốc cũng yêu cầu cấm các cuộc tập trận quân sự với các nước ngoài khu vực. Những đề xuất này can thiệp vào chủ quyền của một quốc gia để tiến hành chính sách đối ngoại của quốc gia đó.
Một vấn đề khác khiến quá trình đàm phán COC kéo dài là sự khác biệt về phạm vi địa lý giữa các nước ASEAN và Trung Quốc. Là một vùng biển nửa kín, với các yêu sách cạnh tranh về các đặc điểm và quyền lợi hàng hải, một căng thẳng đơn lẻ có thể gây xáo trộn toàn bộ khu vực. Trên thực tế, các sự cố giữa Trung Quốc và các nước ASEAN đã xảy ra ở nhiều khu vực khác nhau của Biển Đông.
Năm 2014, Trung Quốc và Việt Nam đã có một cuộc đối đầu nảy lửa khi Trung Quốc triển khai một giàn khoan dầu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền. Năm 2019, các tàu khảo sát của Trung Quốc đã tiến hành một cuộc khảo sát bất hợp pháp tại Vanguard Bank (Bãi Tư Chính) của Việt Nam.
Các tàu đánh cá và tuần duyên của Trung Quốc thường xuyên xâm nhập vào các vùng biển của Philippines.
Ngay cả Indonesia, quốc gia nằm xa về phía nam của Biển Đông, cũng là một mục tiêu khác của các tàu Trung Quốc. Vào đầu năm 2020, họ đã xâm phạm vào vùng biển của Indonesia gần quần đảo Natuna, dẫn đến sự phản đối mạnh mẽ từ Bộ Ngoại giao của quốc gia đó.
Mới đây, vào tháng 6 năm 2021, 16 máy bay quân sự của Trung Quốc đã tiến hành một cuộc tập trận mạo hiểm gần Borneo, nơi bị Malaysia coi là “mối đe dọa nghiêm trọng đối với an ninh quốc gia của họ.” Malaysia thậm chí đã triệu tập đại sứ Trung Quốc để trao công hàm phản đối.
Như tiêu đề của COC cho thấy, công cụ này nên bao quát toàn bộ Biển Đông để xoa dịu căng thẳng ở bất cứ nơi nào chúng xảy ra.
Nói rằng các “học giả” của chính phủ Việt Nam đã sử dụng các tổ chức tư vấn phương Tây để tổ chức các hội nghị chống lại Trung Quốc là vô nghĩa. Hội nghị diễn ra công khai. Không có gì là bí mật.
Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), được đề cập rõ ràng trong bài báo của Valencia, thậm chí đã mời đại sứ Trung Quốc tại Mỹ tới, để phát biểu về quan điểm của Bắc Kinh đối với phán quyết của Trọng tài quốc tế về Biển Đông, vào ngày tòa án đưa ra phán quyết cuối cùng. Các nhà nghiên cứu của chính phủ Trung Quốc đã được trình bày với tư cách là diễn giả tại các hội nghị về Biển Đông của CSIS.
Đối với các hoạt động bất hợp pháp của ngư dân Việt Nam, tình hình đã được cải thiện đáng kể. Năm 2017, Việt Nam bị nhận “thẻ vàng” từ Ủy ban châu Âu. Kể từ đó, Việt Nam đã cho thấy những nỗ lực đáng ghi nhận trong việc ngăn chặn việc đánh bắt bất hợp pháp, không có báo cáo và không theo quy định.
Nước này đã thành lập một ủy ban chỉ đạo quốc gia về chống đánh bắt IUU và thông qua các luật và quy định mới với các biện pháp trừng phạt nghiêm khắc đối với ngư dân của mình tham gia đánh bắt cá trái phép (IUU). Dưới sự chủ trì của Việt Nam trong ASEAN, một Khuôn khổ ASEAN về Chống Khai thác IUU đã được thông qua.
Tuy nhiên, đánh bắt IUU không phải là vấn đề then chốt của các tranh chấp ở Biển Đông. Điều cần tập trung hơn ở đây là các tuyên bố chủ quyền phi pháp dai dẳng của Trung Quốc đối với Biển Đông.
Tóm lại, phải có lý do khiến các quốc gia khác lo ngại về Trung Quốc, chứ không phải Việt Nam. Vấn đề không phải là ai là người vi phạm tồi tệ hơn, mà là ai đang cố gắng làm dịu bớt căng thẳng đối với trật tự dựa trên luật pháp quốc tế ở Biển Đông.