2950. Hồi ký Ted Osius: Nỗ lực hòa giải với Việt Nam nhưng nhân quyền vẫn ‘hóc búa’

  • Joaquin Nguyễn Hoà
  • Gửi tới BBC từ San Jose, Hoa Kỳ

4 giờ trước

Khoảng tháng 9/2021, cựu đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông Ted Osius, xuất bản hồi ký có tựa đề Không có gì là không thể, hòa giải với Việt Nam của Hoa Kỳ (Nothing is Impossible, America’s Reconciliation with Vietnam).

Quyển hồi ký dày gần 300 trang, ghi lại chủ yếu khoảng thời gian tác giả đảm trách chức vụ đại sứ Mỹ tại Việt Nam, 2014-2017, nhưng cũng đề cập đến thời gian ông bắt đầu nhận nhiệm vụ của một nhân viên ngoại giao dưới quyền của vị đại sứ Mỹ đầu tiên tại Việt Nam, ông Pete Peterson, trong khoảng thời gian 1997-2001.

Quyển sách có rất nhiều ghi chép về những hoạt động của ông trong thời gian ở Việt Nam, và sẽ không có gì là đặc biệt nếu như nó chỉ là như thế, vì đa số những hoạt động ấy đều đã được truyền thông nhắc đến, như là chuyện ông tham gia những buổi lễ mang tính văn hóa cổ truyền của người Việt, chuyện ông nỗ lực học tiếng Việt, chuyện ông đi xe đạp xuyên Việt, ông là một viên chức ngoại giao công khai là người đồng tính…

Tương tự như vậy câu chuyện nối lại bang giao Việt Mỹ mở đầu bằng sự hợp tác tìm kiếm hài cốt các quân nhân Mỹ mất tích đã được nói đến rất nhiều lần cả ở Mỹ lẫn Việt Nam, cũng như cố gắng thúc đẩy của hai vị thượng nghị sĩ nỗi tiếng John McCain và John Kerry.

Nhưng cuốn sách sẽ rất có ích đối với những nhà quan sát Việt Nam từ bên ngoài hệ thống chính trị hiện nay, dù xa lạ, hay ít nhiều quen thuộc với sự vận hành của hệ thống này, được Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) chỉ huy, bởi vì tác giả mô tả chân dung dù sơ lược của khá nhiều nhân vật trong hệ thống này, từ nhân viên ngoại giao ít được công luận biết đến như Nguyễn Vũ Tú (bạn thân của tác giả và từng làm đại sứ Việt Nam tại Philippines), đến những nhân vật tột đỉnh quyền lực như Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng.

Có lẽ chưa có người nước ngoài nào mô tả khá tổng thế các chính trị gia Việt Nam đương đại nhiều như thế.

Điều thú vị thứ hai là thông qua những suy nghĩ và hành động của tác giả, độc giả có thể thấy cách tiếp cận toàn diện vấn đề Việt Nam hiện nay của chính giới Mỹ (có thể trừ đi bốn năm 2017-2021, không có quan niệm gì rõ rệt ngoài việc tranh cãi thặng dư hay thâm thụt mậu dịch).

Điều thứ ba, quan trọng nhất, nằm ở chữ Hòa giải (Reconciliation) mà tác giả để trong tựa đề. Người ta thấy từ này xuất hiện rất nhiều xuyên suốt quyển sách, mà không chỉ hòa giải giữa hai chủ thế là quốc gia, mà còn là hòa giải giữa hai cộng đồng người Việt hiện nay trên thế giới.

Chân dung chính trị Việt Nam

Vào năm 1999, hai nước Việt Mỹ đàm phán để ký thỏa ước thương mại song phương, và lực cản lớn nhất là từ nội tình chính trị không thống nhất của bộ chính trị ĐCSVN.

Tác giả ghi lại lời nói của ông Lê Văn Bàng, đại sứ đầu tiên của Việt Nam ở Mỹ sau khi tái lập quan hệ ngoại giao: “Các ông có thể nghĩ rằng chúng tôi là cộng sản thì chúng tôi cứ quyết định, nhóm lãnh đạo của chúng tôi cũng phức tạp chẳng kém gì các ông” (trang 46). Câu nói này có lẽ khái quát rõ nhất về chính trị Việt Nam, không phải như những phát biểu đồng ý nhất trí thường hay thấy trên truyền thông nhà nước.

Thời gian làm đại sứ tại Việt Nam cũng cho tác giả thấy sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ông Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang và Nguyễn Phú Trọng. Ông Dũng cho tác giả một ấn tượng tốt, với ý định (theo lời ông Dũng nói với tác giả) để lại di sản là quan hệ Việt Mỹ khắng khít, cụ thể là Việt Nam tham gia TPP (Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương).

Tác giả cũng nhận định rằng chính ý muốn này của ông Dũng góp phần vào việc ông bị đối thủ loại khỏi đấu trường chính trị sau Đại hội 12 đầu năm 2016 (trang 252).

Ông Ted Osius cũng như các nhà quan sát phương Tây nhận định rằng có những nhóm cấp tiến và bảo thủ trong ĐCSVN. Một ví dụ được tác giả đưa ra chứng minh là việc gạt bỏ kế hoạch mang tên Việt Nam 2035, hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ, (Vietnam2035, Toward Prosperity, Creativity, Equity, and Democracy) do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ông Bùi Quang Vinh, soạn thảo với sự hợp tác của Ngân hàng thế giới. Kế hoạch này đề nghị cho phép thành lập các nghiệp đoàn tự do, và truyền thông độc lập. Nhóm bảo thủ cho rằng những đề nghị này thách thức sự cai trị của ĐCSVN. (trang 134)

Sau đó việc công nhận quyền lập nghiệp đoàn của người lao động Việt Nam cũng được các nhà lãnh đạo ĐCSVN chấp nhận khi tham gia TPP, nhưng cuối cùng chính tổng thống Trump của Mỹ rút ra khỏi TPP.

Sau khi tổng thống Donald Trump rút Mỹ ra khỏi TPP, tác giả trích lời một quan chức thân cận của cựu thủ tướng Dũng trách móc: “Những kẻ phản đối thỏa thuận của chúng ta về quyền của người lao động đang sung sướng”, và “việc cải cách bị ngưng trệ rồi.” (trang 234).

Tuy nhiên dưới cái nhìn của ông Ted Osius, các nhà lãnh đạo Việt Nam rất thống nhất trong thái độ của họ đối với Trung Quốc. Tác giả trích lời ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư, người được tác giả xem là nhóm có tư tưởng bảo thủ nhất, nói với thượng nghị sĩ John McCain sau vụ giàn khoan Trung Quốc xâm lấn lãnh hải Việt Nam: “Chúng tôi phải chuẩn bị, chúng tôi phải bảo vệ chủ quyền của mình” (trang 142). Tác giả cũng có đề cập đến những phát biểu tương tự của bộ trưởng quốc phòng Phùng Quang Thanh, người hay bị dư luận mạng xã hội Việt Nam xem là thân Bắc Kinh (trang 142).

Thành công lớn nhất của tác giả trong cương vị đại sứ, được ông tự đánh giá, là dàn xếp được chuyến đi của ông Nguyễn Phú Trọng đến Mỹ gặp tổng thống Barack Obama, một chuyến đi được cho là làm cho ông Trọng thay đổi quan niệm về nước Mỹ, không còn lo ngại Mỹ sẽ lật đổ nhà nước cộng sản Việt Nam, dẫn đến một quyết định lớn là cho phép trường Đại học Fulbright của Mỹ tại Việt Nam được quyền có chương trình độc lập, tức là không cần học các môn chính trị cộng sản.

Theo ông Ted Osius, ý định chưa có tiền lệ là đưa một vị tổng bí thư ĐCSVN gặp tổng thống Mỹ, là ý tưởng của ông Bùi Thế Giang, người từng là phó đại sứ của Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc , một ý tưởng rất rủi ro về mặt chính trị cho bản thân ông Giang (trang 154), nhưng cuối cùng đã thành công.

Đọc không cầm giấy và nhìn vào mắt

Một chi tiết thú vị trong cuộc gặp Trọng Obama, là ông Trọng nghe theo lời khuyên của Ted Osius là không cầm giấy đọc, mà hãy nhìn thẳng tổng thống Obama để nói chuyện (trang 159: I had urged my friends in the Party to counsel Trọng to leave his notes behind and just have the conversation with President Obama. “Look him in the eyes,” I asked them to tell Trọng. Trọng did, and the two leaders connected).

Thất bai lớn nhất của tác giả là việc tổ chức cho tổng thống Obama gặp gỡ các nhà hoạt động dân sự độc lập khi ông thăm Việt Nam. Ông Ted Osius đã được một ủy viên bộ chính trị ĐCSVN mà ông không tiết lộ danh tánh (trang 197), bảo đảm rằng ông Obama sẽ được gặp những người mà phía Mỹ muốn. Nhưng công an Việt Nam đã cản trở một số người, trong lúc đó người ủy viên bộ chính trị nọ đi ra nước ngoài, không liên lạc được. Tác giả gọi đó là một sự phản bội.

Tác giả cũng không ngờ tới chuyện có rất nhiều quan chức công an thăng tiến trong bộ máy lãnh đạo sau đại hội 12, đầu năm 2016 (trang 172: An unprecedented number of officials with law enforcement experience were jockeying for senior positions).

Sau đó là sự đàn áp mạnh những nhà bất đồng chính kiến, những vi phạm nhân quyền. Ông kết luận rằng có quá nhiều chuyện được đặt lên bàn cân về nhân quyền ở Việt Nam (trang 203: Too much was at stake in the area of human rights in Vietnam).

Tiếp cận toàn diện của người Mỹ

Tác giả trích lời người tiền nhiệm của mình, đại sứ David Shear, rằng điều quan trọng là phải thắt chặt mối quan hệ của mình với ĐCSVN (trang 152: he urged me to continue deepening ties with the Vietnamese Communist Party). Những đại sứ liên tục nhau của Mỹ đều nhìn Việt Nam có hai cơ chế lãnh đạo, đó là Đảng và Chính phủ.

Ngoài việc tiếp xúc rộng rãi với xã hội dân sự mới manh nha tại Việt Nam, trước khi nhận nhiệm sở các viên đại sứ Mỹ đều có tiếp xúc với cộng đồng người Mỹ gốc Việt, trong đó có không ít người chống lại việc tái lập bang giao Mỹ Việt. Ted Osius có lẽ là người đầu tiên công khai kể lại chuyện này.

Ông cho biết rằng trước khi sang Việt Nam trong cương vị đại sứ ông đã gặp bác sĩ Nguyễn Quốc Quân, anh trai nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng Nguyễn Đan Quế vẫn sống trong nước, và đánh giá rằng ông Quân là một người thông thái.

Tác giả cũng tiếp xúc với Đảng Việt Tân, và không tiết lộ cuộc gặp này, cho đến khi cuốn hồi ký được xuất bản, tuy nhiên không có chi tiết về nhân vật và nơi chốn gặp gỡ. Đảng Việt Tân bị nhà nước cộng sản Việt Nam hiện nay gọi là một tổ chức khủng bố. Đảng Việt Tân phủ định chuyện này, nói rằng họ hoạt động bất bạo động.

Qua ghi chép của ông Ted Osius, người ta cũng thấy là người Mỹ khá nhẫn nại với Việt Nam. Đáp lại xảo thuật bội tín của người ủy viên bộ chính trị trong chuyện cản trở các nhà hoạt động dân sự đến gặp ông Obama, thay vì giận dữ, ông Obama nói với tác giả rằng “Họ chưa quen với việc này. Không có nguyên thủ quốc gia nào thăm xứ của họ và đòi gặp tổ chức dân sự. Việc thay đổi phải từ từ” (trang 202).

Tác giả cũng viết rằng ông cho các quan chức Việt Nam biết rằng ông sẽ không quên sự bội tín đó, nhưng sẽ không đâm lén sau lưng họ để trả đũa (trang 201).

Hòa giải giữa ai với ai?

Hòa giải là từ được nhắc đến nhiều nhất trong cuốn sách, kể cả những lúc tác giả gặp khó khăn, hay thất bại. Ông cho biết rằng vào năm ông mới làm việc như là một nhân viên dưới quyền đại sứ Pete Peterson, Việt Nam chỉ có khoảng 800 sinh viên du học ở Mỹ, 20 năm sau con số đó là hơn 30 ngàn.

Tác giả viết câu kết của quyển sách như sau: “Cùng với đội ngũ nhân viên tòa đại sứ, cùng với người dân, cùng với các nhà lãnh đạo Việt Nam, chúng ta tiến bước trên con đường dẫn đến sự hòa giải.” (trang 273).

Tuy nhiên đối với các vấn đề về nhân quyền có vẻ như ông chưa thấy lối thoát, cho rằng đó là vấn đề hóc búa nhất trong quan hệ với Việt Nam.

Ông là nhân chứng của những vụ bắt bớ những nhà bất đồng chính kiến, chứng kiến sức ép từ Washington, và cũng chứng kiến các chuyến bay trục xuất.

Điều có thể làm độc giả khá ngạc nhiên là ông đứng ra làm chuyện hòa giải giữa hai cộng đồng người Việt Nam, một chính phủ cộng sản với cờ đỏ sao vàng, và bên kia là cộng đồng người Việt tị nạn với cờ vàng ba sọc đỏ.

Ông đã hỏi các quan chức VN hiện nay liệu họ có thể thể hiện sự tôn trọng lá cờ vàng ba sọc đỏ hay không như một biểu tượng di sản. Đa số coi ý tưởng đó của ông gây khó chịu, nếu không phải là mang tính đe dọa. Ông cho rằng họ (Hà Nội) không muốn thấy lá cờ đó nữa. (trang 162-163: I asked Hanoi officials if it would be possible to show respect to the yellow flag as a heritage symbol. Most found that idea irritating, if not threatening. They wanted to see the yellow flag retired for good).

Ở phía ngược lại, ông Ted Osius kể lại cuộc gặp với một cựu sĩ quan Việt Nam Cộng hòa từng bị tù cải tạo 11 năm, và ông hiểu rằng người cựu sĩ quan này mất mát quá nhiều đến nỗi là sự hòa giải là không thể nào có thể được.

Dù vậy Ted Osius có vẻ là người lạc quan, khi viết rằng “Thời gian sẽ làm phai nhạt giá trị biểu tượng của các lá cờ, của người thắng lẫn kẻ bại” (trang 163).

Sự phai nhạt có dẫn đến hòa giải hay không là điều chúng ta cần bàn. Nhưng liệu câu hỏi về hòa giải giữa người Việt với nhau có hợp lý hay không khi đặt ra cho một người Mỹ?

Cuốn sách ‘Nothing Is Impossible America’s Reconciliation With Vietnam’ có bán ở các hiệu sách tại Mỹ và có thể đặt mua ở Anh với giá 18,63 bảng. Việc giới thiệu cuốn sách này gần đây ở Việt Nam tuy thế bị ngăn lại vì lý do chính trị.

Bài thể hiện quan điểm và văn phong của tác giả.

One comment

  1. Trước hết, tớ rứt vô cùng théc méc, tại sao “Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc” hổng được tổ chức ở Móng Cái hay Cao Bằng mà lại tổ chức ở phường Điện Biên, quận Ba Đình . Đúng là quận Ba Đình có mật độ số dân đáng gọi là dân cao nhứt Việt Nam, nhưng cái tên là “Đại đoàn kết” thì phải tổ chức ở 1 nơi thật sự “Đại”, ví dụ như Cao Bằng hay Móng Cái . Chứ cái phường Điện Biên so với cả nước xã hội chủ nghĩa, như cái lỗ lông chân í, hoàn toàn hổng thể hiện được ý chí “Đại Đoàn Kết”. Hy vọng vớt vát là bài hát “Kết Đoàn” -bài ruột của Chủ tịch Hồ Chí Minh- được vang lên trong bất cứ những buổi nào có tên “đoàn kết” ở trỏng .

    Có 1 tin vui . RFA với mục đích kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan đã đăng tin về tình hình tạm gọi là phức tạp ở vết chém hư vô chia cắt đất nước . Ô Đinh Kim Phúc có nhận định rất chính xác, đó là đôi khi chính quyền địa phương làm ngược lại trung ương . Trường hợp này có thể ông ấy đúng . Tin vui là Thủ tướng Phạm Minh Chính đã luôn có mặt ở những điểm nóng, & đã có những lời chỉ đạo thấu tình đạt lý . Giữa 2 đảng Cộng Sản luôn có 1 kênh communication, hãy tận dụng nó để giải quyết những vấn đề phức tạp, tránh hết xức tạo nên những ngọn lửa nhen nhóm chủ nghĩa dân tộc cực đoan đang có dịp trỗi dậy trong xã hội Ta .

    Đường biên giới như vĩ tuyến 17 chia cắt 2 miền ngày xưa . Lãnh đạo 2 đảng cần có những tư duy “đột phá” để giải quyết cho dứt điểm những tồn đọng của lịch sử . May i suggest “Thống Nhất”? Đúng là 1 bên là nhà, bên kia là quê hương . Tại sao cả 2 bên không thể vừa là nhà lại là vừa quê hương được ? Biên giới là hệ lụy của fong kiến, dân ta đã theo Đảng theo Bác Hồ đánh đổ fong kiến, đế quốc thì cũng phải giải quyết cho thấu đáo những di sản vốn hổng tốt đẹp . Những gì xấu xa, cặn bã của fong kiến, ta nên từ bỏ, biên giới is definitely one of them.

    Thích

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.