
Phân tích về các đập của Trung Quốc ở Lào cung cấp cái nhìn sâu sắc về nguồn gốc địa phương và động lực của BRI, đặc biệt là dọc theo các khu vực biên giới của Trung Quốc
THE DIPLOMAT by Phillip Guerreiro – December 03, 2021
Ba Sàm lược dịch
Với gần 900 tỷ đô la đầu tư trên gần 140 quốc gia, Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) của Trung Quốc đã gây nên cuộc tranh luận đáng kể. Phần lớn cuộc tranh luận này tập trung vào các mục tiêu chiến lược lớn đã được tuyên bố của dự án, dẫn đến việc chú trọng nhiều hơn đến các khía cạnh địa chính trị và địa kinh tế, đặc biệt là các rủi ro và cơ hội của dự án. Chính trong bối cảnh đó, chúng tôi nhận được những tranh luận giữa những người ủng hộ câu chuyện “ngoại giao bẫy nợ” và những người đặt câu hỏi nghi vấn về nó.
Điều thường bị bỏ qua trong các cuộc tranh luận này là các yếu tố tác động bên trong của BRI. Cụ thể, BRI chủ yếu là về sự phát triển trong nước của Trung Quốc, mà Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã kết nối với sự ổn định và an ninh xã hội. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các vùng biên giới nội địa của Trung Quốc, nơi có dân tộc thiểu số sống chồng lấn xuyên biên giới khá lớn và các chính quyền địa phương của Trung Quốc đã phải vật lộn để hội nhập hiệu quả với chính quyền trung ương của Trung Quốc. Đối với Bắc Kinh, phát triển các khu vực này là điều cốt yếu để hội nhập và ổn định xã hội. Phân tích các đập của Trung Quốc ở Lào sẽ cung cấp một cái nhìn sâu sắc về nguồn gốc địa phương và động lực của BRI, đặc biệt là dọc theo các khu vực biên giới của Trung Quốc.
Có chiều dài gần 5.000 km, sông Mekong bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng của Trung Quốc và chảy qua Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Theo Tổ chức phi chính phủ về Sông ngòi Quốc tế, sông Mekong là một trong những dòng sông đa dạng sinh học nhất thế giới và cung cấp sinh kế cho gần 65 triệu người ở Hạ lưu Mekong (LMB). Trong khi con sông là một kỳ quan sinh thái và là cơ sở cho những sinh vật sống dọc theo bờ của nó, vùng lưu vực này cũng đã chín muồi để phát triển tài nguyên dưới dạng thủy điện.
Trung Quốc có chuyên môn sâu rộng về phát triển thủy điện. Kể từ những năm 1950, gần 22.000 đập lớn (cao 15 mét trở lên) đã được xây dựng ở Trung Quốc, bao gồm cả đập lớn nhất thế giới: Đập Tam Hiệp. Chuyên môn về xây dựng đập này đã giúp Trung Quốc đẩy mạnh xuất khẩu ra toàn cầu về phát triển đập, với sông Mekong là một trong những địa điểm chính phát triển đập của Trung Quốc ở nước ngoài. Theo Viện Tương lai Khu vực Mekong và Biểu điểm Thủy điện Sông ngòi Quốc tế, khoảng 55% tổng số đập ở nước ngoài của Trung Quốc là tại châu Á; trong số 55% đó, khoảng 73% là ở Đông Nam Á. Chỉ riêng trong lưu vực sông Mekong, 81% đập của Trung Quốc ở nước ngoài nằm tại Lào.
Theo quan điểm của Lào, phát triển thủy điện là chìa khóa để mở rộng xuất khẩu điện sang khu vực và trở thành “Pin của Đông Nam Á”. Trong khi mục tiêu này có ý nghĩa từ góc độ kinh tế, từ khía cạnh sinh thái và xã hội, mong muốn phát triển thủy điện mở rộng này để lại rất nhiều câu hỏi.
Đập là một trong những dự án cơ sở hạ tầng gây tranh cãi nhất mà nhà nước có thể theo đuổi: được các quan chức công quyền yêu thích vì tiềm năng kinh tế và phát triển của chúng, bị người dân địa phương và các tổ chức phi chính phủ ghét bỏ vì không tương xứng với những tác động xã hội và môi trường.
Về mặt môi trường, các đập lớn không thể được coi là “xanh”; theo một nghiên cứu trên tạp chí BioScience, các con đập thực sự đóng góp một lượng đáng kể khí nhà kính vào bầu khí quyển.
Về mặt xã hội, việc phát triển đập thường đòi hỏi phải di dời những người sống ở khu vực xung quanh do lũ hồ chứa. Tuy nhiên, việc di dời các đập này hiếm khi công bằng về mặt tài chính và dẫn đến các gia đình sống xa nông trại và điều kiện sinh kế của họ hơn.
Về lâu dài, các đập cũng trở thành một vấn đề đầu tư kinh tế, vì trung bình các đập lớn dường như có chi phí vượt mức 96%. Các chi phí để duy trì đập ảnh hưởng đến giá bán điện và tác động đến người tiêu dùng.
Với bản chất gây tranh cãi của các con đập, tại sao Trung Quốc lại cân nhắc theo đuổi các dự án này ở các quốc gia láng giềng của mình? Câu trả lời cho câu hỏi này liên quan đến việc xem xét kỹ hơn tình hình nội bộ của các tỉnh nội địa của Trung Quốc.
Về nội bộ, Trung Quốc phải đối mặt với những thách thức trong việc duy trì sự phát triển kinh tế của các vùng nội địa. Dù vấn đề này đã được biết đến từ lâu, theo bài viết của Frank Tang trên báo South China Morning Post, thậm chí vào năm 2021, có bằng chứng về cách biệt giữa đời sống các vùng ven biển và nội địa của Trung Quốc ngày càng gia tăng. Một trong những tỉnh nội địa đang cố gắng “bắt kịp” là tỉnh Vân Nam, nơi sông Mekong chảy qua (ở Trung Quốc gọi là Lancang – Lan Thương). Sự phát triển của tỉnh Vân Nam – giáp với Myanmar, Lào và Việt Nam – nên được gắn liền với sự phát triển mở rộng của thủy điện Trung Quốc ở sông Mekong và BRI.
Một trong những phương pháp hỗ trợ sự phát triển của Vân Nam là Chiến lược Đầu cầu, nhằm cải thiện sự phát triển kinh tế và đô thị hóa của Vân Nam bằng cách thúc đẩy tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng kết nối và quan hệ tài chính giữa Vân Nam và Đông Nam Á. Điểm này đã được nhấn mạnh trong Kế hoạch 5 năm của ĐCSTQ (2011-2015), trong đó kêu gọi “mở cửa các khu vực biên giới”. Kế hoạch xây dựng đầu cầu hoặc “cửa ngõ” này về cơ bản tạo ra một điểm đầu tư duy nhất, “đầu vào” thông qua thủ phủ của Vân Nam, Côn Minh.
Điều này trở nên rõ ràng trong cuốn sách “Rivers of Iron”, trong đó các tác giả – David M. Lampton, Selina Ho và Cheng-Chwee Kuik – phân tích sự phát triển của Trung Quốc đối với đường sắt cao tốc được thiết kế để kết nối Đông Nam Á với Côn Minh. Dưới đây là rõ ràng cách một cơ sở hạ tầng kết nối (đường sắt cao tốc) gắn người dân và đầu tư với Trung Quốc thông qua Côn Minh, về cơ bản biến Côn Minh thành một trung tâm thương mại kết nối Trung Quốc với Đông Nam Á.
Sự đa dạng sắc tộc ở tỉnh Vân Nam cũng phải được xem xét. Trong cuốn sách của Tim Summers, “Yunnan A Chinese Bridgehead” (“Vân Nam Một đầu cầu của Trung Quốc”), ông khám phá tầm quan trọng mà ĐCSTQ đặt ra trong việc duy trì sự theo dõi cẩn thận đối với tất cả các dân tộc thiểu số ở Trung Quốc. Vân Nam có nhiều nhóm dân tộc thiểu số cũng có mặt ở các quốc gia Đông Nam Á lân cận.
Trong khi bản chất nhất thời của đường sắt cao tốc là một ví dụ rõ ràng, thì làm thế nào để thủy điện phù hợp với điều này? Hãy xem xét rằng các đập có tính chất tích hợp và có thể là một phương tiện để phát triển kinh tế. Các con đập có thể đóng góp vào sự phát triển của các vùng đất canh tác với hệ thống tưới tiêu, dòng vốn với hệ thống giao thông đường sông, sự phổ biến của các tiêu chuẩn công nghệ và chuyên môn, cũng như sản xuất và truyền tải điện. Cùng với việc phát điện, mối liên hệ giữa Trung Quốc, Vân Nam, Lào và BRI được chú trọng.
Gần đây nhất vào tháng trước, Reuters đã đưa tin rằng Trung Quốc đang phải đối mặt với một “cuộc khủng hoảng” quốc gia về điện. Dữ liệu từ Trung tâm Dữ liệu Trung Quốc của Đại học Michigan cho thấy xu hướng tăng sản lượng điện và GDP ngày càng cao của tỉnh Vân Nam từ năm 2000 đến năm 2019. Tuy nhiên, trong khi sản lượng điện trong nước tăng, cơ hội nhập khẩu điện vào Trung Quốc cũng đang được theo đuổi. Bộ Năng lượng Hoa Kỳ cho biết vào năm 2013, các khoản đầu tư thủy điện của Trung Quốc ở Lào sẽ xuất khẩu một lượng điện đáng kể sang Trung Quốc. Một báo cáo của Ngân hàng Phát triển Châu Á cũng nêu rõ kế hoạch của Lào để tạo ra một lưới điện truyền tải 500 kV dài hạn kết nối Lào với tất cả các quốc gia láng giềng, bao gồm cả Trung Quốc, nơi đường dây truyền tải dự kiến sẽ đi qua tỉnh Vân Nam.
Vào tháng 9 năm 2020, Reuters đưa tin về việc doanh nghiệp nhà nước (SOE) Trung Quốc là China Southern Power Grid Co (CSG) tiếp quản phần lớn SOE của Lào, là Electricite du Lào (EDL), và quyền kiểm soát tiếp theo của lưới điện Lào. Hơn nữa, vào tháng 3 năm 2021, Tân Hoa xã báo cáo rằng EDL và CSG đã thông báo về việc ký kết một Thỏa thuận Chuyển nhượng. Thỏa thuận này sẽ cho phép CSG “đóng vai trò là đơn vị vận hành lưới điện quốc gia của đất nước được đầu tư, xây dựng và vận hành lưới điện 230 kV trở lên ở Lào và thực hiện các dự án nối lưới giữa Lào và các nước láng giềng.”
Mặc dù chính phủ Lào có thể coi đây là một quá trình quan hệ hữu nghị, nhưng việc kiểm soát lưới điện của Lào bởi một DNNN Trung Quốc thực sự gây ra một số lo ngại. Lào sẽ cho phép các DNNN Trung Quốc vận hành và kiểm soát cơ sở hạ tầng quan trọng bên trong biên giới của mình trong 25-30 năm tới. Sau đó, cơ sở hạ tầng cũ kỹ cộng với tác động kép của biến đổi khí hậu và suy thoái sinh thái có thể khiến các đập này hoạt động kém hiệu quả và Lào sẽ phải gánh chịu các chi phí dài hạn (cả kinh tế và môi trường) trong khi các lợi ích từ ngắn hạn đến trung hạn có thể đang hướng đến Trung Quốc.
Nói một cách ngắn gọn, có vẻ như Trung Quốc đang tận dụng tài chính, chính trị và vị trí địa lý của mình ở Lưu vực sông Mê Kông để tạo điều kiện phát triển các dự án thủy điện ở Hạ lưu vực sông Mê Công để đồng thời phát triển quốc gia láng giềng, tạo ra một thị trường thương mại tiềm năng; thiết lập Vân Nam là đầu mối nhập cảng vào Trung Quốc; và sử dụng thủy điện do Trung Quốc vận hành trong khu vực để xuất khẩu điện trở lại Trung Quốc và cung cấp năng lượng cho sự phát triển của tỉnh Vân Nam. Tuy nhiên, bên ngoài những cân nhắc nội tại, các dự án thủy điện này được ràng buộc một cách công khai với BRI và các dự án BRI khác. Theo nhà phát triển thủy điện hàng đầu của Trung Quốc, PowerChina, các đập dự kiến ở Lào được tiếp thị rõ ràng và được thiết kế để cung cấp năng lượng cho “việc xây dựng Đường sắt Trung Quốc-Lào và ‘Pin Đông Nam Á ’của Lào.”
Các con đập của Trung Quốc ở Lào không chỉ là một tấm bê tông tạo ra điện. Những con đập này là một công cụ cho sự phát triển của địa phương, nhưng cũng là sự hội nhập khu vực thông qua sản xuất năng lượng. Sự kiểm soát của DNNN Trung Quốc đối với lưới điện và các đập tạo khả năng cho Trung Quốc nhập khẩu một tỉ lệ điện năng vào Trung Quốc, hỗ trợ việc theo đuổi phát triển trong nước ở nội địa Trung Quốc, và thúc đẩy ổn định xã hội và an ninh. Loại hình kiểm soát hạ nguồn này cho phép Trung Quốc hưởng lợi từ các đập này trong khi giảm thiểu các tác động tiêu cực đối với Lào; về bản chất, Trung Quốc đang vừa có được cái bánh và vừa ăn được nó (hưởng lợi từ hai đầu).
Tuy nhiên, nhìn rộng hơn, các đập này nhấn mạnh rằng BRI không phải là một kế hoạch nguyên khối. Một con đập của Trung Quốc ở Lào không bằng một con đập của Trung Quốc ở Ecuador. Để thực sự hiểu rõ về BRI, chúng ta phải bối cảnh hóa từng dự án, đối tượng hưởng lợi tại địa phương và động cơ của Trung Quốc.
–
Phillip Guerreiro là ứng cử viên Tiến sĩ ngành quan hệ quốc tế tại Steven J. Green School of International & Public Affairs, thuộc Đại học Quốc tế Florida.
Liên quan:
“Những con đập của Trung Quốc ở Lào cho chúng ta biết gì về Sáng kiến Vành đai và Con đường”
Việt Nam cần làm nhiều hơn nữa “vành ngoài 7 chữ, vành trong 8 nghề” để chiếm lại vị trí chánh cung của mềnh .
ThíchThích