3291. Chính sách quốc phòng “Bốn không” của Việt Nam đang được thử nghiệm

Việt Nam là một trong 24 quốc gia bỏ phiếu chống trong nghị quyết nhằm loại Nga ra khỏi Hội đồng Nhân quyền LHA

Cuộc chiến ở Ukraine đã buộc Hà Nội rơi vào tình thế như khiêu vũ uyển chuyển giữa Nga và Hoa Kỳ.

The Interpreter by Huynh Tam Sang -26 Apr 2022

(Huỳnh Tâm Sáng là giảng viên Khoa Quan hệ Quốc tế của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh và là thành viên nghiên cứu tại Tổ chức NextGen Đài Loan. Ông cũng là thành viên không thường trú tại Diễn đàn Thái Bình Dương. Các lĩnh vực nghiên cứu chính của ông là quan hệ quốc tế Đông Á, chính sách đối ngoại của Việt Nam và nền ngoại giao cường quốc).

Ba Sàm lược dịch

Sau cuộc xâm lược Ukraine của Putin vào tháng Hai, đã có tranh cãi liên tục về phản ứng của chính phủ Việt Nam, vốn đã kiềm chế việc gọi cuộc chiến của Tổng thống Nga Vladimir Putin là “cuộc xâm lược”, không tuân theo nghị quyết của Liên hợp quốc lên án cuộc tấn công quân sự của Nga vào Ukraine, trong đó đưa ra một lời kêu gọi chính thức về sự kiềm chế từ tất cả các bên liên quan, và gần đây nước này còn bỏ phiếu chống việc loại Nga khỏi Hội đồng Nhân quyền.

Tuy nhiên, những người quen thuộc với chính sách đối ngoại của Việt Nam có thể không ngạc nhiên trước cái gọi là phản ứng nước đôi của Hà Nội đối với cuộc khủng hoảng Ukraine. Áp dụng một quan điểm thận trọng đối với các cuộc khủng hoảng quốc tế để không mắc phải những sai lầm không thể sửa chữa là một đặc điểm điển hình trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.

Lần này, Việt Nam chấp nhận lập trường miễn cưỡng đối với cuộc chiến của Moscow ở Ukraine và cố gắng đạt được vị thế cân bằng giữa Nga – “đối tác chiến lược toàn diện” – và Hoa Kỳ – đối tác an ninh khu vực ngày càng quan trọng của mình. Bằng cách không ủng hộ cả Nga và Ukraine, điều mà cuối cùng có thể cho thấy sự liên kết với Hoa Kỳ, Việt Nam đã tìm cách tránh xa việc tham gia vào chính trị của các cường quốc.

Cần lưu ý rằng, trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Việt Nam là nạn nhân địa chính trị của tam giác Washington-Moscow-Bắc Kinh và gánh chịu những cái giá phải trả khi ngả về một phía.

Cả Nga và Hoa Kỳ đều có vai trò hết sức quan trọng đối với chính sách đối ngoại và tính toán quốc phòng của Việt Nam. Việt Nam cần Nga không chỉ để mua sắm vũ khí mà còn để củng cố quan hệ bạn bè truyền thống, điều này tỏ ra rất quan trọng khi Việt Nam nhận được sự hỗ trợ cả về ngoại giao và quân sự từ Liên Xô trước đây. Nga là nước đầu tiên thiết lập “quan hệ đối tác chiến lược” với Việt Nam vào năm 2001. Và nước này cũng có chung thứ hạng “đối tác chiến lược toàn diện” với Trung Quốc và Ấn Độ, và vẫn là đối tác thăm dò dầu khí hàng đầu của Việt Nam ở Biển Đông.

Trong khi đó, Việt Nam cũng coi trọng mối quan hệ kinh tế và quốc phòng đang ngày càng gia tăng với Washington, quốc gia đã nhiều lần tìm cách nâng tầm quan hệ với Hà Nội theo hướng “đối tác chiến lược” và ưu tiên lợi ích an ninh hơn những khác biệt về ý thức hệ. Mối quan hệ song phương được tăng cường mà Việt Nam đã vun đắp với Hoa Kỳ, đặc biệt là trong lĩnh vực an ninh hàng hải, có thể đóng vai trò răn đe và gửi một thông điệp tinh tế tới các nhà lãnh đạo Trung Quốc về tranh chấp lãnh thổ với Hà Nội.

Việt Nam coi cả Hoa Kỳ và Nga là những đối tác quan trọng khi đối phó với sự hiếu chiến của Bắc Kinh trong các vùng biển xung quanh mình. Washington đã ngày càng có những đề nghị hỗ trợ ngoại giao và an ninh cho Hà Nội để chống lại sự ép buộc của Bắc Kinh trong các vùng biển tranh chấp của họ, trong khi Moscow đã âm thầm ủng hộ Hà Nội bằng cách kiên trì hợp tác dầu khí với Việt Nam trong các vùng biển tranh chấp.

Hiện Việt Nam đã tìm cách duy trì và tăng cường quan hệ với cả các đối tác cũ và mới thông qua cam kết đa hướng. Trong việc tìm cách đa dạng hóa quan hệ với các nước láng giềng, các đồng minh ngoại giao truyền thống, các nước trong khu vực và các cường quốc tầm trung và lớn, Việt Nam đã tránh bỏ tất cả trứng vào một giỏ. Tôn trọng nền độc lập, Hà Nội đã tái khẳng định chủ nghĩa đa phương và các nguyên tắc đa dạng hóa nằm trong tầm nhìn kiểu an lạc về chính sách đối ngoại của mình. Thay vì đứng về bên nào, Việt Nam tiếp tục nhấn mạnh cam kết “hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển” trong quan hệ đối ngoại.

Có thể cho rằng, thành công đặc biệt của Việt Nam trong việc khuôn đúc một sự cân bằng mong manh giữa Washington và Moscow đã dẫn đến cảm giác tự hài lòng ở Hà Nội. Tuy nhiên, nhiệm vụ giành quyền tự chủ chiến lược và vị thế nhập nhằng của Việt Nam đối với cuộc chiến đẫm máu của Nga ở Ukraine không thể kéo dài.

Về an ninh quốc tế, các quốc gia dễ bị mắc kẹt trong tình thế tiến thoái lưỡng nan khi theo đuổi lợi ích thực dụng trong khi vẫn phải củng cố các nguyên tắc quốc tế. Những cân nhắc thực dụng của Việt Nam được đưa vào trong chính sách “Bốn không”: không tham gia liên minh quân sự, không đứng về phía nước này để chống lại nước khác, không đặt căn cứ quân sự nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam hoặc sử dụng Việt Nam làm đòn bẩy để chống lại nước khác và không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Đối với cuộc khủng hoảng Ukraine, Bộ Ngoại giao Việt Nam nhấn mạnh sự cần thiết của tất cả các bên liên quan tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và “các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế” trong việc “[kiềm chế] sử dụng vũ lực”“[tìm kiếm] một giải pháp hòa bình, đóng góp vào việc duy trì hòa bình, an ninh, ổn định và hợp tác ở khu vực và trên thế giới.” Trong tất cả những điều được xem xét, tuyên bố chính thức của Việt Nam ám chỉ sự chỉ trích ngầm đối với các hành động của Nga vì họ đã vi phạm các nguyên tắc của Hiến chương. Đối với các nhà lãnh đạo ở Hà Nội, lập trường chính thức của Việt Nam phù hợp với các nguyên tắc chính sách đối ngoại của nước này.

Thế nhưng Việt Nam có thể đi bao xa trong mối quan hệ chặt chẽ giữa Washington và Moscow, trong khi vẫn phải bảo vệ các lợi ích an ninh quốc gia của mình ở nước ngoài? Câu trả lời phụ thuộc vào khả năng của Việt Nam trong việc nâng cao năng lực bao trùm – bao gồm một nền kinh tế vững mạnh, khả năng quốc phòng đủ mạnh và quan hệ quốc tế được mở rộng như đã nêu trong Nghị quyết 13 của Đảng Cộng sản Việt Nam, ban hành năm 1988.

Khả năng của Việt Nam trong việc tận dụng giá trị chiến lược của mình đóng một vai trò quan trọng để củng cố vị thế trước những toan tính của các cường quốc. Đối với các quốc gia bậc trung và (đặc biệt) nhỏ, liên minh với một cường quốc chống lại một cường quốc khác không phải là một lựa chọn khôn ngoan, và có khả năng không mang lại lợi ích gì ngoài nhiều tổn thất cho an ninh quốc gia của nước đó. Khả năng vận dụng khéo léo của Việt Nam thông qua các diễn biến chính trị lúc này giữa các cường quốc đang được thử thách.