3458. Làm thế nào để qua khỏi cuộc khủng hoảng tiếp theo ở eo biển Đài Loan

Hình minh họa cờ Trung Quốc và Hoa Kỳ, tháng 1 năm 2022
Dado Ruvic / Reuters

Washington phải sẵn sàng cho một cuộc thử thách dù có hoặc không có chuyến đi của Pelosi

FOREIGN AFFAIRS by David Sacks – July 29, 2022

(DAVID SACKS là Thành viên Nghiên cứu tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại *).

Ba Sàm lược dịch

“Quân đội cho rằng đó không phải là một ý kiến ​​hay ngay vào lúc này.” Đó là nhận định của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden vào cuối tháng 7 về chuyến đi dự kiến ​​của Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi tới Đài Loan, theo báo chí là được dự kiến ​​vào tháng tới.

Lối run rẩy như vậy dường như được xác thực rõ. Bản thân Pelosi cũng thừa nhận như vậy; khi được hỏi về nhận xét của tổng thống, bà nói, “có thể quân đội sợ máy bay của chúng tôi bị bắn rơi hoặc thứ gì đó tương tự bởi người Trung Quốc.”

Những tuyên bố đó tiết lộ rằng Hoa Kỳ có thể có thông tin tình báo hoặc một cảnh báo riêng từ Trung Quốc rằng họ đang lên kế hoạch cho một phản ứng leo thang cao chưa từng có, nếu Pelosi thực sự đến thăm Đài Bắc.

Cuộc điện đàm kéo dài hai giờ giữa Tổng thống Biden và nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình, vào ngày 28 tháng 7, dường như đã không làm dịu được tình hình. Bản tóm tắt chính thức của Trung Quốc về cuộc trò chuyện đã trích dẫn lời Tập cảnh báo Tổng thống Biden rằng “kẻ nào đùa với lửa sẽ bị nó thiêu rụi”.

Chuyến thăm tiềm năng của Pelosi khiến các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ không có nhiều lựa chọn tốt. Nếu bà ấy hủy chuyến đi, điều đó có thể sẽ thúc đẩy Trung Quốc tăng cường áp bức Đài Loan và giáng một đòn mạnh vào lòng tin của công chúng Đài Loan về tương lai của họ.

Mặt khác, một chuyến thăm có thể sẽ gây ra một cuộc khủng hoảng, vì Trung Quốc sẽ cảm thấy buộc phải đáp trả vì những lời đe dọa của họ bị coi là rỗng tuếch.

Tuy nhiên, sẽ là sai lầm khi nghĩ rằng kế hoạch cho chuyến đi của Pelosi sẽ xác định liệu một cuộc đọ sức có thành hiện thực ở eo biển Đài Loan hay không. Trên thực tế, Hoa Kỳ và Trung Quốc đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng như vậy – và nó sẽ rủi ro hơn nhiều so với những bế tắc trước đó. Trung Quốc, sở hữu khả năng quân sự đáng kể và ít quan tâm hơn đến việc duy trì quan hệ với Hoa Kỳ, hiện sẵn sàng hơn nhiều để đáp trả một hành động khiêu khích có leo thang, so với các cuộc khủng hoảng trước đây.

Với khả năng xảy ra khủng hoảng hoặc thậm chí là một cuộc xung đột, Hoa Kỳ nên ưu tiên đảm bảo rằng họ có khả năng bảo vệ Đài Loan và giúp Đài Loan sẵn sàng cho một cuộc xâm lược tiềm tàng. Chương trình nghị sự này, không chỉ là những cử chỉ mang tính biểu tượng, nên là một chỉ dẫn về cách tiếp cận của Hoa Kỳ trong những năm quan trọng sắp tới.

KHÔNG PHẢI LẦN ĐẦU TIÊN

Đối với tất cả sự chú ý mà chuyến đi của Pelosi đang thu hút, nó không phải là chưa từng có.

Trước đây đã có những chuyến thăm tương tự, vẫn hoàn toàn phù hợp với chính sách một Trung Quốc của Hoa Kỳ, theo đó Hoa Kỳ công nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc, thừa nhận (nhưng không tán thành) quan điểm của Trung Quốc rằng chỉ có một Trung Quốc, và Đài Loan là một phần của Trung Quốc, và duy trì quan hệ không chính thức với Đài Loan.

Pelosi không phải là Chủ tịch Hạ viện đầu tiên có chuyến thăm như vậy: Newt Gingrich đã gặp Tổng thống Đài Loan Lý Đăng Huy tại Đài Bắc vào năm 1997. Thực ra, Gingrich là một Chủ tịch Hạ viện, người của Đảng Cộng hòa trong chính quyền thuộc đảng Dân chủ; ngược lại, Pelosi và Biden lại thuộc cùng một đảng. Vì lý do đó, các quan chức Trung Quốc tin rằng bà đang hành động có sự phối hợp với Nhà Trắng.

Tuy nhiên, các phái đoàn quốc hội vẫn thường xuyên đến thăm Đài Loan. Các chính quyền trong quá khứ đã cử các quan chức cấp nội các đến đảo; vào năm 2020, Bộ trưởng Y tế và Dịch vụ Nhân sinh Alex Azar đã đến thăm Đài Bắc. Pelosi sẽ đi trên máy bay quân sự của Hoa Kỳ, nhưng điều đó cũng không có gì mới; vào tháng 6 năm 2021, chẳng hạn, ba thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đã đến Đài Loan trên một chiếc phi cơ của Không lực Hoa Kỳ.

Điều khiến chuyến thăm của Pelosi trở nên khác biệt là nó sẽ diễn ra vào thời điểm Bắc Kinh tin rằng Hoa Kỳ đang rời bỏ chính sách một Trung Quốc của mình. Và đã có những thay đổi đáng chú ý trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ đối với Đài Loan trong những năm gần đây.

Ngoại trưởng Mike Pompeo đã gửi lời chúc mừng tới Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn trong lễ nhậm chức của bà vào năm 2020. Chính quyền Trump đã tiếp đón các nhà ngoại giao của Đài Loan tại Bộ Ngoại giao và tại các tòa nhà chính phủ liên bang khác, điều này vẫn được giữ nguyên trong thời chính quyền Biden. Ngoại trưởng Antony Blinken đã công khai gọi Đài Loan là một “quốc gia”. Chính quyền Biden đã mở rộng lời mời đại diện của Đài Loan tại Hoa Kỳ đến dự lễ nhậm chức của Biden và mời Đài Loan tham gia Hội nghị thượng đỉnh vì Dân chủ. Các quan chức chính quyền cũng tiết lộ với giới truyền thông rằng quân nhân Hoa Kỳ đang ở Đài Loan để huấn luyện lực lượng của họ. Không có động thái nào trong số này tương đương với sự công nhận ngoại giao, nhưng Bắc Kinh có thể coi chuyến đi của Pelosi như một cơ hội để gửi thông điệp rằng Hoa Kỳ phải ngăn chặn những gì Trung Quốc coi là một khuôn mẫu có chủ ý.

Bắc Kinh cho rằng Hoa Kỳ đang rời bỏ chính sách một Trung Quốc

Bên cạnh cố gắng ngăn chặn việc tăng cường quan hệ Hoa Kỳ – Đài Loan, phản ứng của Trung Quốc đối với chuyến thăm tiềm năng của Pelosi một phần là kết quả của việc chọn đúng thời điểm. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sẽ tìm kiếm nhiệm kỳ thứ ba chưa từng có trên cương vị người đứng đầu Đảng Cộng sản Trung Quốc, vào mùa thu năm nay. Ông ta có thể lo ngại rằng sự ủng hộ công khai ở cấp cao của Hoa Kỳ đối với Đài Loan sẽ khiến ông ta trông yếu ớt, không kiểm soát được các mối quan hệ quan trọng và làm suy yếu vị thế của ông ta.

Quan trọng hơn, phản ứng của Bắc Kinh cho thấy nguồn an ủi ngày càng tăng của họ trước viễn cảnh về một cuộc khủng hoảng đối với Đài Loan. Khi Tập phải đối mặt với những khó khăn kinh tế trong nước và sự bất bình đang dâng cao đối với chính sách không COVID nghiêm ngặt của mình, ông có thể đã kết luận rằng một cuộc khủng hoảng Đài Loan có thể thu hút công chúng và nâng cao sự tín nhiệm của họ đối với ông.

Tập cũng có thể đã xác định rõ rằng sự ủng hộ của quốc tế đối với Đài Loan đang tăng quá mạnh, đặc biệt là sau khi Nga xâm lược Ukraine. Cả Đài Loan và Ukraine đều là những nền dân chủ tương đối non trẻ tồn tại bên cạnh những nước láng giềng độc tài lớn hơn nhiều, với những hình mẫu lâu đời trên lãnh thổ của họ; các nhà lãnh đạo trên khắp thế giới đã lưu ý đến những điểm tương đồng. Tập có thể cảm thấy cần phải ngăn cản các nước hợp tác với Đài Bắc để tăng cường khả năng phòng thủ và khả năng phục hồi của nơi này. Ông cũng có thể thấy chuyến thăm của Pelosi là một cái cớ thuận lợi cho các cuộc tập trận quân sự quy mô lớn, có thể kiểm tra khả năng chuẩn bị của Quân đội Giải phóng Nhân dân cho các hoạt động phức tạp. Điều đó có thể cung cấp cho ông hiểu biết về việc liệu quân đội của Trung Quốc sẽ hoạt động tốt hơn so với Nga đã làm ở Ukraine hay không và đánh giá xem Hoa Kỳ và Đài Loan sẽ phản ứng như thế nào.

TRUNG QUỐC NỔI GIẬN

Cuộc khủng hoảng ở eo biển Đài Loan xảy ra gần nhất là cách đây hơn một phần tư thế kỷ. Sự kiện mang tính chất khiêu khích là bài diễn văn năm 1995 mà Lý [Đăng Huy] đã đưa ra tại trường cũ của mình, Đại học Cornell, về cái mà ông gọi là “kinh nghiệm dân chủ hóa của Đài Loan”. Việc Tổng thống Đài Loan được cấp thị thực thăm Mỹ, sau khi Ngoại trưởng Warren Christopher trấn an người đồng cấp Trung Quốc rằng ông Lý sẽ không được phép nhập cảnh vào nước này, đã khiến Bắc Kinh phẫn nộ. Để trả đũa, quân đội Trung Quốc đã tiến hành các cuộc thử nghiệm tên lửa và tập trận ở eo biển Đài Loan. Điều này khiến Bộ trưởng Quốc phòng William Perry thông báo rằng Hoa Kỳ sẽ cử hai nhóm tác chiến hàng không mẫu hạm tới khu vực, chứng tỏ rằng Hoa Kỳ đã sẵn sàng can thiệp để đẩy lùi một cuộc xâm lược của Trung Quốc.

Kể từ đó, Trung Quốc đã phát triển một bộ công cụ mạnh mẽ hơn để trừng phạt Đài Loan. Trong khi ngân sách quân sự của Đài Loan vượt hơn Trung Quốc vào năm 1994, thì Trung Quốc hiện nay lại đã vượt Đài Loan tới 20 lần. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã trở nên táo tợn hơn trong các hoạt động diễn tập quân sự mang tính cưỡng chế: chỉ cần nhìn vào những cuộc xâm nhập gần như hàng ngày của họ vào vùng nhận dạng phòng không của Đài Loan là cũng rõ. Để gửi một thông điệp, Trung Quốc giờ đây sẽ phải làm điều gì đó vượt lên đáng kể so với kiểu mồi chài đó, có nghĩa là các lựa chọn của họ ngày càng leo thang.

Ngoài lợi thế quân sự của mình, Trung Quốc có nhiều đòn bẩy hơn đáng kể đối với nền kinh tế của Đài Loan. Vào thời điểm xảy ra cuộc khủng hoảng 1995–96, xuất khẩu của Đài Loan sang đại lục chiếm một phần ba của 1% tổng xuất khẩu của nó; ngày nay, con số đó là 30%. Trung Quốc có thể chọn cắt đứt thị trường của mình đối với nhiều hàng hóa Đài Loan, một động thái mà Đài Loan – hoặc Hoa Kỳ – sẽ khó có thể đối phó.

Không chỉ có quan hệ giữa Trung Quốc và Đài Loan mới phát triển. Trong các cuộc khủng hoảng trước đây, Trung Quốc có lợi ích lớn hơn trong việc duy trì mối quan hệ mang tính xây dựng với Hoa Kỳ. Điều này đúng trong cuộc khủng hoảng 1995–96, bế tắc bắt nguồn từ vụ Mỹ vô tình đánh bom đại sứ quán Trung Quốc ở Belgrade vào năm 1999 và một sự cố vào năm 2001, khi một chiến đấu cơ Trung Quốc va chạm với một máy bay do thám của Mỹ. Trong tất cả những trường hợp này, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cuối cùng đã tìm cách làm giảm căng thẳng. Tuy nhiên, giờ đây, với quan hệ Mỹ-Trung đang rơi tự do, Tập có thể tin rằng chỉ còn rất ít lựa chọn để mà gìn giữ quan hệ.

KHÓ KHĂN PHÍA TRƯỚC

Một kỷ nguyên nguy hiểm hơn nhiều đang bắt đầu cho các mối quan hệ xuyên eo biển. Tập đã đặt ra mục tiêu đạt được “sự phục hưng vĩ đại” của Trung Quốc vào năm 2049; thống nhất với Đài Loan là điều kiện tiên quyết cho mục tiêu đó. Và ông ta có thể muốn đẩy nhanh lịch trình đó hơn nữa: Tập khó có thể sống đến năm 2049 (năm ông sẽ gần 100 tuổi) và từng tuyên bố rằng vấn đề này không thể được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Điều đó ngụ ý rằng ông ta ít nhất muốn đạt được tiến bộ đáng kể đối với câu hỏi về tình trạng của Đài Loan hoặc phải giải quyết nó hoàn toàn dựa trên thời gian biểu cuộc đời của ông.

Như Giám đốc CIA William J. Burns gần đây đã nói: “Tôi sẽ không đánh giá thấp quyết tâm của Chủ tịch Tập trong việc khẳng định quyền kiểm soát của Trung Quốc – quyền kiểm soát của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa – đối với Đài Loan. . . .” Sau khi củng cố quyền cai trị của mình tại Đại hội Đảng sắp tới và loại bỏ các đối thủ và đặt những người trung thành vào các vị trí quan trọng, Tập sẽ rảnh tay hơn để theo đuổi các mục tiêu của mình.

Để đối phó với những kết quả tồi tệ nhất có thể xảy ra trong giai đoạn mới nguy hiểm này, chính quyền Biden nên bắt đầu xem xét toàn diện chính sách của Hoa Kỳ đối với Đài Loan. Việc này đã là muộn, do lần xem xét cuối cùng diễn ra vào năm 1994, và đã có những thay đổi đáng kể về động lực xuyên eo biển trong những năm có sự can dự. Một nguyên tắc chỉ đạo trong chính sách của Hoa Kỳ là ngăn chặn một cuộc tấn công của Trung Quốc vào Đài Loan. Để đạt được mục tiêu đó, Hoa Kỳ nên nói rõ rằng họ sẽ sử dụng vũ lực để bảo vệ Đài Loan.

Chính phủ Hoa Kỳ nên cải thiện khả năng chiến đấu của Đài Loan

Ngoài những đảm bảo như vậy, chính phủ Hoa Kỳ nên cải thiện khả năng chiến đấu của Đài Loan. Hoa Kỳ nên hỗ trợ Đài Loan cải tổ lực lượng dự bị và phát triển lực lượng phòng thủ lãnh thổ, trong khi thúc đẩy Đài Bắc tăng chi tiêu quốc phòng và đầu tư vào các khả năng phi đối xứng như tên lửa, thủy lôi và phòng không di động.

Các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ cũng phải làm việc với Đài Loan để chuẩn bị cho dân thường của họ đối phó với một cuộc tấn công tiềm tàng của Trung Quốc. Điều này đòi hỏi phải lập kế hoạch làm thế nào để duy trì nguồn cung cấp thực phẩm, nhiên liệu và y tế đầy đủ trong khi xảy ra xung đột.

Trong khi đó, để giảm nguy cơ xảy ra một cuộc xung đột lớn, Hoa Kỳ nên xem xét lại các động thái vốn sẽ làm bùng phát căng thẳng, nhưng lại không làm tăng một cách có ý nghĩa khả năng răn đe hoặc khả năng phục hồi của Đài Loan. Hợp tác an ninh song phương giữa Hoa Kỳ và Đài Loan sẽ cần phát triển trong những năm tới, nhưng không nên công khai các hoạt động như vậy. Các quan chức cấp cao của Hoa Kỳ nên đến thăm khi có lý do chính đáng để làm như vậy, chẳng hạn như thảo luận về quan hệ thương mại Hoa Kỳ-Đài Loan hoặc hợp tác về các vấn đề sức khỏe toàn cầu.  

Theo tiêu chuẩn đó, chuyến thăm dự kiến ​​của Pelosi là không nên. Mặc dù Đài Loan không có khả năng đảm bảo bất kỳ lợi ích cụ thể nào, song họ sẽ phải chịu gánh nặng từ bất kỳ phản ứng nào của Trung Quốc.

Nhưng Pelosi dường như không thể hủy chuyến đi của mình; bà ấy có thể cảm thấy rằng đây là cơ hội cuối cùng để thể hiện sự ủng hộ của mình đối với Đài Loan, vì bà không có khả năng tiếp tục là chủ tịch Hạ viện sau cuộc bầu cử giữa kỳ sắp tới. Thêm vào đó, nền tảng trong sự nghiệp chính trị của bà là có lập trường cứng rắn đối với Trung Quốc. Giờ đây, chuyến thăm đã trở nên công khai và có sự ủng hộ đáng kể của lưỡng đảng trong Quốc hội, nên sẽ là thất bại chính trị nếu kế hoạch của bà kết thúc bằng việc hủy bỏ nó.

Khi đó, kết quả tốt nhất là Pelosi sẽ trì hoãn chuyến đi của mình cho đến sau cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ (11/2022) nhưng trước phiên họp tiếp theo của Quốc hội, nó sẽ trùng với kết quả của Đại hội Đảng của Trung Quốc. Tập có khả năng sẽ coi bất kỳ sự chậm trễ nào của chuyến thăm cũng như là một chiến thắng của Trung Quốc, cũng giống như Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân đã đưa cuộc khủng hoảng 1995–96 vào trạng thái tương tự, và Pelosi vẫn có thể coi một chuyến đi như vậy như là một phần trong di sản của mình.

Trong thời gian chờ đợi, Pelosi có thể đưa ra luật giúp tăng cường năng lực quốc phòng của Đài Loan, có khả năng bao gồm các điều khoản như ưu tiên giao vũ khí cho hòn đảo hoặc bắt đầu chương trình tài trợ quân sự ở nước ngoài với Đài Bắc. Một dự luật cũng có thể trao cho chính quyền Biden quyền đàm phán một thỏa thuận thương mại toàn diện với Đài Loan.

Để chuẩn bị cho một cuộc khủng hoảng trong tương lai đối với Đài Loan, các biện pháp thực chất như vậy sẽ có ý nghĩa hơn nhiều so với bất kỳ cử chỉ mang tính biểu tượng nào.

(*) Wikipedia: Hội đồng Quan hệ Đối ngoại (CFR) là một tổ chức tư vấn nghiêng về cánh hữu của Mỹ chuyên về chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Hoa Kỳ. Được thành lập vào năm 1921, nó là một tổ chức phi lợi nhuận độc lập và phi đảng phái. CFR có trụ sở tại Thành phố New York, với một văn phòng bổ sung tại Massachusetts. Hội đồng có 5.103 thành viên, bao gồm các chính trị gia cấp cao, nhiều ngoại trưởng, giám đốc CIA, chủ ngân hàng, luật sư, giáo sư, giám đốc công ty và giám đốc điều hành, và các nhân vật truyền thông cấp cao.