
WAR HISTORY by Elisabeth Edwards – Nov 8, 2022
Ba Sàm lược dịch
Trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Lạnh, người Mỹ coi Nga Xô viết và Trung Quốc hợp tác với nhau như một “con quái vật” Cộng sản, đe dọa phá hủy mọi thứ trên đường đi của nó. Cả hai đều chia sẻ các giá trị chính trị tương tự và đã từng là đồng minh trong nhiều cuộc xung đột. Ngày nay, Trung Quốc và Nga có thể là một mặt trận thống nhất, nhưng 50 năm trước, họ đã bị mắc kẹt trong một cuộc chiến tranh hạt nhân tiềm tàng đe dọa hủy diệt cả hai nước.
Đồng minh biến thành kẻ thù cay đắng

Joseph Stalin, 1937
Mối quan hệ giữa Nga và Trung Quốc bắt đầu từ thế kỷ 17, khi xung đột nảy sinh sau khi triều đại nhà Thanh cố gắng loại bỏ những người Nga định cư khỏi Mãn Châu. Sự căng thẳng giữa hai quốc gia đã kết thúc với Hiệp ước Nerchinsk, trong đó đặt ra một sự kiểm soát đối với việc Nga tiếp tục bành trướng về phía đông.
Cả hai quốc gia đều trải qua những biến động chính trị vào đầu những năm 1920. Dưới sự lãnh đạo của Vladimir Lenin, Liên Xô mới thành lập đã phá bỏ tàn tích của chế độ quân chủ Nga trong suốt đầu những năm 1920. Ở Trung Quốc, Đảng Cộng sản (ĐCSTQ) được thành lập bởi những nhà cách mạng đã chuyển sang chủ nghĩa Mác sau Cách mạng Nga. Nó liên kết với Quốc dân đảng (KMT), nhưng mối quan hệ của họ xấu đi sau một biến động dữ dội khiến ĐCSTQ phải hoạt động bí mật.
Trong cuộc Vạn lý Trường chinh năm 1934-35, Mao Trạch Đông trở thành lãnh đạo của ĐCSTQ, chức danh mà ông giữ cho đến khi qua đời năm 1976. ĐCSTQ và Quốc Dân Đảng, do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo, đã rơi vào một cuộc xung đột dữ dội. Điều này khiến mối quan hệ giữa Trung Quốc và Liên Xô trở nên xấu đi, khi chính phủ Liên Xô chọn ủng hộ Tưởng thay vì Mao.
Chia rẽ Trung-Xô

Bộ binh và kỵ binh Nhật tiến về Nam Kinh, Trung Quốc, năm 1937. (Photo Credit: Bettmann / Getty Images)
Vào thời điểm đó, Liên Xô mạnh hơn nhiều so với Trung Quốc. Điều này cho phép người kế nhiệm Lenin, Joseph Stalin, can dự trực tiếp vào các mối quan hệ với Trung Quốc, ra lệnh cho Mao hợp tác với Tưởng trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai. Sau khi cuộc xung đột kết thúc, Quốc dân đảng và ĐCSTQ tiếp tục cuộc chiến của chính họ về số phận của giới lãnh đạo Trung Quốc.
ĐCSTQ đã thắng và Stalin, một lần nữa, ra lệnh cho Mao hợp tác với Tưởng, thay vì nắm quyền, một chiến thuật phù hợp với Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Tương trợ Trung-Xô năm 1945. Năm 1949, ĐCSTQ đã đánh bại Quốc Dân Đảng và đuổi đảng này ra khỏi Trung Quốc, để Mao trở thành nhà lãnh đạo đất nước và xây dựng một quốc gia mới bằng cuộc Cách mạng Vô sản.
Năm 1950, Mao và Stalin đã ký Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Tương trợ Trung-Xô, theo đó Trung Quốc được Liên Xô bảo vệ và hỗ trợ trong trường hợp bị Mỹ tấn công.

Vụ thử bom nguyên tử đầu tiên của Trung Quốc, tháng 10 năm 1964. (Photo Credit: Bettmann / Getty Images)
Căng thẳng gia tăng
Vào giữa những năm 1950, Liên Xô và Trung Quốc đã diễn ra những cuộc đấu tranh để tìm ra điểm chung về niềm tin Cộng sản và kẻ thù của họ ở phương Tây. Trong khi Trung Quốc muốn tiếp tục lập trường hiếu chiến đối với các quốc gia Đế quốc, thì Liên Xô đã nhìn thấy tiềm năng chung sống hòa bình với Hoa Kỳ. Khi căng thẳng leo thang, cả hai tranh giành quyền kiểm soát các quốc gia “vệ tinh” dọc biên giới chung của họ.
Mối thù diễn ra trong mắt công chúng. Vào tháng 4 năm 1960, Trung Quốc công khai chỉ trích các nhà lãnh đạo Liên Xô, gọi họ là những người theo Chủ nghĩa xét lại. Liên Xô phản ứng bằng cách rút hàng nghìn cố vấn Liên Xô khỏi Trung Quốc và đình chỉ viện trợ tài chính và quân sự, điều này khiến Trung Quốc chuyển hướng tập trung nhiều hơn vào việc tranh giành quyền lực. Nó không chỉ đe dọa Liên Xô mà còn chứng minh với thế giới rằng quốc gia này là một mối đe dọa nghiêm trọng.
Năm 1964, Trung Quốc cho nổ vũ khí hạt nhân đầu tiên, khiến nước này trở thành quốc gia thứ năm có khả năng tham gia chiến tranh hạt nhân.

Cuộc chạm trán trong thời kỳ căng thẳng hạt nhân giữa Liên Xô và Trung Quốc lên đến đỉnh điểm, trong đó một tàu Liên Xô đã phun vòi rồng vào một tàu đánh cá Trung Quốc. (Ảnh: China Photo Service)
Bùng nổ cuộc chiến biên giới
Vào giữa những năm 1960, lực lượng tuần tra biên giới của Nga bắt đầu phát hiện sự hiện diện ngày càng tăng của quân đội Trung Quốc dọc biên giới Trung-Xô. Đến năm 1968, có 375.000 quân Liên Xô đồn trú tại đây cùng với 1.200 máy bay và 120 tên lửa tầm trung. Trung Quốc đồn trú một con số khổng lồ 1,5 triệu binh sĩ ở biên giới. Cùng với khả năng hạt nhân mới của đất nước và các cuộc đàm phán ngày càng có không khí thù địch, có vẻ như xung đột là không thể tránh khỏi.
Căng thẳng lên đến đỉnh điểm vào năm 1969 dọc theo Ussuri, một vùng đất biên giới khó xác định ở phía đông bắc Trung Quốc được tạo thành từ những hòn đảo nhỏ, không có người ở, đã trở thành yếu tố thúc đẩy tranh chấp biên giới. Ussuri được chỉ định là ranh giới giữa Nga và Trung Quốc vào năm 1860, khi Công ước Bắc Kinh loại bỏ Mãn Châu khỏi Trung Quốc và trao nó cho Nga. Chính phủ của Mao đã hợp pháp hóa cuộc tấn công của Trung Quốc vào các đảo ở Ussuri bằng cách tuyên bố rằng công ước vào thế kỷ 19 đó đã ép buộc đối với người Trung Quốc.
Vào ngày 2 tháng 3 năm 1969, quân đội Trung Quốc đã giết chết một nhóm lính biên phòng Liên Xô trong một cuộc phục kích trên đảo Zhenbao. Theo Mao, cuộc tấn công nhằm dạy cho Liên Xô một “bài học cay đắng” và ngăn cản họ hành động trong tương lai. Trên thực tế, Liên Xô chỉ bị kích động thêm bởi cuộc phục kích. Mười ba ngày sau, hai quốc gia giao tranh giành đảo Trân Bảo, lần này với nhiều binh lính và hỏa lực hơn. Sau trận chiến, Liên Xô thay đổi chiến lược, lôi kéo Trung Quốc vào bàn thương lượng.

Lính Trung Quốc đối đầu với quân đội Liên Xô trên đảo Zhenbao. (Ảnh: AFP / Getty Images)
Nguy cơ chiến tranh hạt nhân giữa Nga và Trung Quốc
Ban đầu, Trung Quốc bác bỏ các mối đe dọa chiến tranh hạt nhân của Nga Xô viết, nhưng điều đó đã thay đổi vào mùa hè năm 1969, khi Giám đốc CIA Richard Helms thông báo rằng Điện Kremlin đã tiếp cận các chính phủ nước ngoài để hỏi xem họ sẽ phản ứng thế nào trước một cuộc tấn công hạt nhân vào quốc gia châu Á này.
Thông báo đã chứng minh cho người Trung Quốc thấy rằng các mối đe dọa của Liên Xô là hợp pháp. Bây giờ đối mặt với viễn cảnh chiến tranh hạt nhân, Trung Quốc biết rằng họ không bao giờ có thể sánh được với sức mạnh của các lực lượng Liên Xô. Những mối đe dọa này, kết hợp với căng thẳng ngày càng tăng của Chiến tranh Việt Nam và chính quyền của Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã khiến Mao nhận ra rằng tốt hơn hết là “liên minh với kẻ thù ở xa, để chống lại kẻ thù ở cửa ngõ”.
Vài tuần sau thông báo của CIA, Trung Quốc đã đồng ý đạt được một thỏa thuận với Liên Xô, do đó làm giảm khả năng xảy ra chiến tranh hạt nhân giữa hai nước.