30 tháng 11 2022
Trần Hiếu Chân
Gởi cho BBC Tiếng Việt từ TP. HCM

Từ trung tuần tháng 11 đến nay, truyền thông Việt Nam đăng nhiều tin bài kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100 của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Thế nhưng theo tôi, để tưởng nhớ đến ông Võ Văn Kiệt, người Việt nam cần ôn lại một vài sự kiện đối ngoại quan trọng thời gian cuối nhiệm kỳ Thủ tướng của ông.
Những ngày này, khi biểu tình nổ ra ở Trung Quốc, ‘bàn tay sắt cùa Thiên An Môn’ là Giang Trạch Dân qua đời, thì Việt Nam đang chậm lại, loay hoay trước thay đổi lớn trên thế giới.
Chậm hơn thế giới đã đành, nay Việt Nam còn chậm hơn ASEAN. Indonesia, Philippines và Malaysia đang đẩy mạnh tương tác với Mỹ trên mọi lĩnh vực, để bảo vệ chủ quyền đất nước. Còn lãnh đạo Campuchia đã thay mặt ASEAN, lấy quyết định sẽ sang thăm Kyiv, sau khi đã điện đàm với Tổng thống Zelensky và mời Ngoại trưởng Ukraine ký Hiệp định bất tương xâm.
Đây là lúc cần tìm hiểu lại xem, giải sử còn sống thì ông Sáu Dân sẽ nói gì về nhu cầu ký Đối tác chiến lược với Hoa Kỳ hiện nay?

Việt Nam những năm qua vẫn chần chừ, vẫn ‘kiên định’ từ chối ký Đối tác Chiến lược với Hoa Kỳ, mặc dù Washington đã cấp tập kiến nghị. Các quan chức cấp cao trong chính quyền Hà Nội đã “tự sướng” bằng các ngôn từ tự an ủi: “Quan hệ Việt – Mỹ thực chất đã là đối tác chiến lược” như một bài trên Tuổi Trẻ gần đây. Thậm chí, họ còn cho rằng quan hệ đã “có điểm vượt tầm quan hệ chiến lược”… để coi nhẹ việc ký trễ.
Trong khi đó, chuyến thăm Philippines của Phó Tổng thống Kamala Harris hôm 21/11/2022 tại tỉnh Palawan, nhìn ra vùng biển Trung Quốc đòi có phần, cho thấy một điều gì đó thật mới mẻ đang bắt đầu giữa Mỹ và ASEAN.
Bà Harris là quan chức Mỹ đầu tiên đến đó, mà theo các nhà quan sát, động thái này có ý nghĩa như một thông điệp gửi tới Trung Quốc và cả vùng châu Á, chứ không chỉ gửi riêng Philippines.
Còn lãnh đạo Hà Nội tính đến nay đã 6 lần “chuyển lời mời” của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Tổng thống Biden, mời ông sang thăm Việt Nam, nhưng Văn phòng Tổng thống vẫn chưa có câu trả lời tích cực, theo VOA.
Kể cả cuộc điện đàm giữa ông Trọng với ông Biden được truyền thông trong nước nhất loạt đưa tin, đến nay, vẫn chưa thấy động tĩnh gì. Những trục trặc gần đây trong quan hệ Việt – Mỹ khiến dư luận nhớ lại các cuộc đàm phán Hiệp định thương mại Việt – Mỹ (BTA) thuở ấy cũng “lên bờ xuống ruộng”, kéo dài hàng mấy năm trời cực kỳ khó khăn.
Lúc đó là thời điểm tư duy Võ Văn Kiệt tỏa sáng, bất chấp cản trở.

Trưởng đoàn đàm phán Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, Nguyễn Đình Lương nhớ lại: “Khó nhất là ngay từ khi bắt đầu, ông Võ Văn Kiệt đã không còn ở vị trí quyết định. Trong số lãnh đạo, số người đồng ý không nhiều. Nhiều người trong số họ muốn mình không trắng, không đen, công thì được hưởng, tội không phải mình chịu. Cứ tiếc, ông Kiệt không còn làm Thủ tướng nữa.”
Ông Kiệt lúc bấy giờ cùng với Đỗ Mười và Lê Đức Anh là ba cố vấn cho Bộ Chính trị. Cứ mỗi khi họp Bộ Chính trị, đoàn đàm phán lại phải hỏi Văn phòng, ông Kiệt từ TP. HCM có ra họp không? Có mặt ông Kiệt thì cán cân sẽ khác. Từ đầu quan điểm của ông Kiệt đã rất rõ ràng: phải bình thường hóa với Mỹ, ký Hiệp định Biên giới với Trung Quốc, ký Hiệp định thương mại Việt – Mỹ… Cho dù các ý kiến trong cuộp họp phát biểu theo chiều hướng nào thì ý kiến của ông Kiệt vẫn là phải ký. (Tr. 349 – 350 trong “Bên Thắng Cuộc” (BTC) của Huy Đức).
Ngày 6/9/1999 từ TP. HCM, ông Kiệt viết thư gửi Bộ Chính trị, xin vắng mặt phiên họp ngày 7/9/1999 và cho biết, nếu có điều kiện thì nên ký sớm để phía Mỹ có thể phê chuẩn Hiệp định trước bầu cử. Lê Đức Anh không chống BTA nhưng nói nên ký Hiệp định Biên giới với Trung Quốc trước khi ký BTA với Mỹ. Theo ông Phan Văn Khải, khi Đỗ Mười đặt lại vấn đề BTA, ông Lê Đức Anh đồng ý với ông Mười chưa ký vội.
Nhưng cũng theo ông Phan Văn Khải, so với những nội dung đã lên kế hoạch ký năm 1999, BTA Việt – Mỹ ký năm 2000 không đạt được thêm tiến bộ nào. Nhưng thất bại không ký được trong năm 1999, đã đánh mất của Việt Nam hơn 2 năm cơ hội. Mà cứ mỗi năm chậm trễ, người dân Việt Nam phải chịu thiệt hại hơn 1,55 tỷ USD, chỉ tính riếng xuất khẩu.
Về Hội nghị Thành Đô 1990
Theo một quan chức trong chính quyền Hà Nội không muốn tiết lộ danh tính, khoảng vào năm 2007, ông Võ Văn Kiệt cho mời ông Dương Danh Dy, một chuyên gia thượng thặng về Trung Quốc của Bộ Ngoại giao, đến nhà riêng để nghe ông Dy báo cáo lại toàn bộ câu chuyện về Hội nghị Thành Đô (*) trong hai ngày 3 – 4 tháng 9 năm 1990, tại thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc).
Ông Võ Văn Kiệt dành hẳn cả buổi để nghe ông Dy trình bày lại diễn biến phức tạp của Hội nghị. Ông Dy phê phán những kẻ có trách nhiệm trong các thỏa hiệp vô nguyên tắc ở Thành Đô. Kết thúc buổi làm việc, ông Dương Danh Dy đề cập ra ngoài chủ đề buổi báo cáo, nhưng vẫn được Thủ tướng Võ Văn Kiệt quan tâm. Ông Dy nói: “Đến Khruschchev cũng có lần đã phải cay đắng thốt lên: ‘Chỉ có những kẻ ngu mới tin Trung Quốc’ sau khi Liên Xô bị Trung Quốc lừa cho nhiều vố. Ngay cả không ít người Mỹ cũng từng ăn phải quả đắng của Trung Quốc đấy!”
Lúc chia tay, ông Sáu Dân thân mật nói với ông Dương Danh Dy: “Từ nay trở đi, có vấn đề gì về Trung Quốc anh thấy khó báo cáo với Lãnh đạo, thì cứ anh đến đây nói với tôi, tôi hứa sẽ trực tiếp chuyển tới các đồng chí có trách nhiệm” (xem thêm nguồn BBC – đăng lại dưới đây).
Trong hồi ký “Hồi ức và Suy nghĩ”, cựu Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ đã tiết lộ: “Sau hai ngày nói chuyện (3 – 4/9/1990), kết quả được ghi lại trong một văn bản gọi là ‘Biên bản tóm tắt’ gồm 8 điểm. Khi nghiên cứu biên bản 8 điểm đó, chúng tôi nhận thấy có tới 7 điểm nói về vấn đề Campuchia, chỉ có 1 điểm nói về cải thiện quan hệ giữa hai nước mà thực chất chỉ là nhắc lại lập trường cũ của Trung Quốc gắn việc giải quyết vấn đề Campuchia với bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc”.
Nghĩa là, Hội nghị Thành Đô kết thúc song việc bình thường hoá quan hệ hai nước, điều mà lãnh đạo Việt Nam nóng lòng mong đợi, vẫn chưa chốt lại được. Vì thế, giả thuyết về có một bản “mật ước” rõ ràng thiếu cơ sở. Thậm chí ngay cả “Biên bản tóm tắt” 8 điểm nói trên cũng không được các bên thực hiện đầy đủ.
Nguyên nhân chủ yếu là do sự phản đối của Bộ Ngoại giao dưới quyền Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, với sự đồng tình của một vài ủy viên Bộ Chính trị khác. Trong cuộc họp kiểm điểm về Hội nghị Thành Đô, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã phát biểu: “Mình bị họ lừa nhiều cái quá. Tôi nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm bẫy.”
“Những đòi hỏi mới của thời cuộc”
Để thấy đòi hỏi cao của Thủ tướng Võ Văn Kiệt đối với mỗi thông điệp ông muốn đưa ra trước toàn đảng, toàn dân, thì không có gì chính xác hơn bằng cách kể lại câu chuyện về bài báo “Những đòi hỏi mới của thời cuộc”
Thật ra, đấy không phải là bài viết, đấy chỉ là một dự thảo cho bài trả lời phỏng vấn, trên cơ sở trước đó đã có cuộc trao đổi giữa Thủ tướng với một nhà báo của tờ Quốc tế (Bộ Ngoại giao) được cử đứng ra chấp bút. Nhưng khi đưa bản thảo đầu tiên lên, ông Kiệt đã bác ngay.
Ông nói nguyên văn, theo lời của người thư ký cho ông Kiệt lúc bấy giờ, là: “Bản này viết chưa tới”. Rồi ông lại cho gọi một chuyên viên khác trong nhóm soạn văn bản cho Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm, chấp bút cho ông một bản thứ hai. Lần này thì bản thảo được ông chấp thuận. Nhưng đúng như Tổng biên tập Tuần báo Quốc Tế đã kể lại trong một lần trả lời phỏng vấn báo Pháp Luật. Bài trả lời phỏng vấn dự kiến in trên số Tết Ất Dậu (2005) của tờ Quốc tế tuy đã được xây dựng khá công phu, nhưng rồi cũng lại có số phận trải đủ cung bậc thăng trầm…
Đó là khi bài đã lên khuôn ở nhà in thì TBT báo Quốc tế nhận được một “cú” điện thoại không cho phép đăng bài đó. Điều lạ lùng là một bài báo quan trọng như thế, đích thân do ông Võ Văn Kiệt đứng tên, theo tập quán bất thành văn, khi chưa lên trang thì chỉ có nhân vật liên quan (ông Kiệt) và Tổng biên tập báo được biết. Vậy tại sao bài báo lại rò rỉ để đến mức bị chỉ đạo phải gỡ bài trong đêm?
Nhưng rồi chẳng có ai trả lời điều thắc mắc nói trên của vị Tổng biên tập báo. Cuối cùng, ông Tổng biên tập phải vào tận nhà in, bóc hết một “tay in” là tám trang, rồi thay vào một bài khác. Có lẽ trong làng báo thế giới ít có trường hợp nào mà một tổng biên tập phải “đứng mũi chịu sào” vì những chuyện “tai bay vạ gió” như thế.
Nói vậy không phải là ai đó coi thường bài báo ông Kiệt đứng tên. Lý do chủ yếu, có thể là “lãnh đạo ở trên” có ai đó không thích cách đặt vấn đề của ông Kiệt, nghe nó quá mạnh khi ông Kiệt khẳng định: Chiến thắng 30/4 là vĩ đại nhưng người Việt Nam cũng “đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát”.
Vì thế một sự kiện liên quan đến chiến tranh, theo ông Kiệt, khi nhắc lại theo các lối cũ vẫn làm “sẽ có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Vết thương chung của dân tộc như vậy cần được giữ lành, “thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu”.
Thủ tướng “xé rào” Võ Văn Kiệt có thể nói gì về mối tương quan giữa bang giao Việt – Mỹ và Việt – Trung hiện nay?
Tôi tin rằng nhiều khả năng ông sẽ nhắc lại bài học cay đắng: Bắc Kinh lúc nào cũng biết cách chia rẽ nội bộ lãnh đạo cấp cao trong ĐCSVN để đẩy lùi những tiến bộ trong quan hệ Việt – Mỹ, đặt VN luôn vào “cửa dưới” vì lợi ích riêng cho Trung Quốc.
Cách đây gần phần tư thế kỷ, Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm từng phải thốt lên: “Tôi tiếc đứt ruột… Khi ấy, các tập đoàn sản xuất hàng xuất khẩu sang Mỹ chỉ chờ có Hiệp định (BTA) là nhảy vào Việt Nam. Mình quyết định không ký, mất biết bao nhiêu cơ hội” (Tr. 350 Bên Thắng cuộc).
Ngày hôm nay, mối tương quan tay ba này tiếp tục bất định và bất cân xứng. Sau các cuộc gặp cao nhất Trung-Việt hậu Đại hội 20 Đảng CSTQ, ngoại giao Việt Nam dường như đang bước vào chặng đường “vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh”.
Việc ký Đối tác Chiến lược với Hoa Kỳ sẽ có gặp phải số phận như Hiệp định thương mại Việt – Mỹ?
Bài thể hiện quan điểm riêng của tác giả Trần Hiếu Chân từ TP HCM.
‘Đã đến lúc công bố mật ước Thành Đô?’
17 tháng 10 2014

Việc công bố các văn bản như mật ước Thành Đô giữa lãnh đạo Việt Nam và lãnh đạo Trung Quốc gần một phần tư thế kỷ về trước là điều Việt Nam nên làm hiện nay, theo một sử gia về lịch sử Đảng từ Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tuy nhiên, sự kiện cuộc gặp cấp cao đó đã diễn ra ‘quá lâu’ và nay giới nghiên cứu ‘không còn quan tâm’ nữa, theo một chuyên gia khác về lịch sử Đảng từ Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Song nếu cần tìm hiểu về hội nghị này, thì những ai quan tâm nên tiếp cận với Văn phòng Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam, vẫn theo chuyên gia này.
Trong khi đó, Hội nghị Thành đô là một sự kiện vẫn còn tác động tới đường lối và cán bộ của bộ máy lãnh đạo của Việt Nam ngày nay, điều được gọi là ‘Hội chứng Nguyễn Cơ Thạch’, theo một cựu lãnh đạo cấp Vụ ngành ngoại giao Việt Nam.
Trước hết, trao đổi với BBC hôm 17/10/2014, nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng, trực thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, nêu quan điểm về mức độ quan tâm của giới nghiên cứu tới cuộc gặp cấp cao từng xảy ra từ năm 1990 vốn đang được dư luận Việt Nam ‘quan tâm’ trở lại gần đây:
“Quan tâm là quan tâm từ cái thời ấy thôi, chứ bây giờ giới nghiên cứu cũng không quan tâm nhiều lắm, chủ yếu là bên chính trị thôi,” Phó Giáo sư Nguyễn Trọng Phúc nói.
‘Hỏi Văn phòng TƯ Đảng’
Khi được hỏi Hội nghị được cho là có vai trò mở ra bình thường hóa quan hệ giữa Việt – Trung sau nhiều năm xung đột, chiến tranh căng thẳng, tại sao lại không được giới nghiên cứu quan tâm, giáo sư Phúc đáp:
“Bởi vì đấy là thuộc về lĩnh vực quan hệ giữa hai đảng, hai nhà nước, còn chúng tôi về lịch sử không được am tường những vấn đề đó.
“Cứ liên lạc với chỗ Văn phòng Trung ương Đảng thì may ra người ta biết.”
Hôm thứ Sáu, khi được hỏi về việc có nên giải mật để công bố hay bạch hóa trước công luận và tại Quốc hội các văn kiện liên quan ‘mật nghị’, hay ‘mật ước Thành Đô 1990 hay không, kể cả các văn bản, văn kiện chỉ đạo đường lối, sách lược, chính sách liên quan ‘chịu tác động’ từ Hội nghị này, một sử gia khác về lịch sử Đảng nói:

“Tôi nghĩ rằng văn bản nào chăng nữa thì độ mật, độ bí mật gì đó, nếu có, thì nó chỉ có giá trị trong thời hạn nhất định.
“Và nếu có những văn bản như thế, thì tôi nghĩ cũng nên hoàn toàn công khai. Hoàn toàn nên công khai, chứ không có gì phải giữ bí mật quá lâu,” Phó Giáo sư Vũ Quang Hiển từ Đại học Quốc gia Hà Nội nói.
“Nhưng chỉ có điều Việt Nam cầm văn bản đó, thì Việt Nam công khai đến đâu, đến cấp nào, đấy là một câu chuyện.
“Phía Trung Quốc thì nói thật là có những tài liệu đến nay đã hơn nửa thế kỷ rồi, bây giờ người ta cũng chẳng công khai. Phía Trung Quốc thì rõ ràng rất khó lấy được tài liệu chính thức từ phía họ.
“Còn phía Việt Nam, các tài liệu đã công khai rất nhiều, nhưng tôi nghĩ không phải là đã hết. Mà chắc chắn là vẫn còn những điều gì đó mà chưa công khai, thì văn bản đó tôi nghĩ, nếu có, thì nên công khai.
“Để cho nhân dân, để cho cán bộ, để cho tất cả mọi người có thể hiểu được thực sự, thực hư lúc bấy giờ, trong bối cảnh như vậy, với tư cách là những cá nhân, không phải với tư cách là một tập thể, đương nhiên những cá nhân có trọng trách và trách nhiệm, thì đã có những thỏa hiệp như thế nào với phía Trung Quốc về câu chuyện này. Đấy tôi nghĩ là điều nên làm.”
‘Thất thố ngoại giao?’
Hôm 15/10/2014, một cựu cán bộ ngoại giao của Việt Nam, nguyên Tổng Lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc, nói với BBC một số nguyên tắc về ngoại giao và thể thức (protocol) ngoại giao có thể đã bị Trung Quốc vượt qua và đem lại lợi thế cho mình trong cuộc mật đàm.
Ông Dương Danh Dy nói: “Phê phán tại sao Hội nghị đó có những kết quả như thế này, như thế kia, nói thế thì nó đụng nhiều người.”
“Tôi biết chuyện này khá rõ nhưng chưa tiện nói bây giờ, bởi vì Trung Quốc rõ ràng có ý định trong chuyện đưa một số nhà lãnh đạo Việt Nam vào bẫy, mắc bẫy của họ.
“Chẳng hạn như chuyện phía Trung Quốc họ bảo rằng để rất kính trọng ba đồng chí lão thành của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì họ để ba ông ở ba biệt thự khác nhau, thế thì những ông đã già bảy mươi, tám mưới như ông Phạm Văn Đồng, ông Đỗ Mười, ông Nguyễn Văn Linh lúc đó thì làm sao mà hội ý được với nhau…?”
Cũng hôm thứ Tư, một cựu quan chức khác ở Bộ Ngoại giao Việt Nam, người không muốn tiết lộ danh tính, nói với BBC:

“Một số cán bộ ngoại giao cấp cao có thể đã tiếp cận được văn bản và các tài liệu, nhưng việc được phép phổ biến, công bố tới đâu, có những nguyên tắc hạn chế.”
Theo cựu nhân viên ngoại giao này, phía Trung Quốc đã chuẩn bị rất kỹ các nội dung đàm phán, ký kết, kể cả những điều được cho là ‘phụ lục’ nhưng lại có vai trò như những nguyên tắc chỉ đạo cho bình thường hóa và cả ‘hậu bình thường hóa’ lẫn ‘tái cấu trúc’ quan hệ và chiến lược ‘quan hệ, hợp tác’ giữa hai nước dài hạn, điều mà Việt Nam lâu nay vẫn gọi là ‘các thỏa thuận cấp cao’ và ‘sự kế tục’.
Trong đó cụ thể có các nguyên tắc ‘chỉ đạo’ đàm phán không chỉ liên quan tình hình chính trị và điều kiện tái lập quan hệ nhất thời mà còn các phương châm ‘chỉ đạo chiến lược và lâu dài’ về giải quyết tranh chấp, xung đột trong quá khứ và thực tế khi đó để lại và một số ràng buộc chính trị dưới danh nghĩa ‘quan hệ về ý thức hệ’ liên Đảng v.v…
‘Hội chứng Nguyễn Cơ Thạch’
Hôm 17/10, một cựu lãnh đạo cấp Vụ phó ở Bộ Ngoại giao Việt Nam nói với BBC rằng hậu quả của Hội nghị Thành Đô vẫn còn ‘đang tác động’ tới tâm lý của lãnh đạo, cán bộ và đường lối của Việt Nam hiện nay trong quan hệ liên quan Trung Quốc.
Theo ý kiến này, việc ông Nguyễn Cơ Thạch, khi đó là Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Ngoại giao, bị Trung Quốc ‘gây áp lực’ với Việt Nam và đặt điều kiện phải ‘loại bỏ’ để bình thường hóa quan hệ, đã gây ra một ‘nỗi sợ’ với giới chức không chỉ trong ngạch ngoại giao của Việt Nam, suốt từ đó đến nay, trong các quan hệ, công việc của nhà nước liên quan Trung Quốc.
“Hội chứng Nguyễn Cơ Thạch là việc Trung Quốc đã khống chế toàn bộ lãnh đạo Việt Nam để dần dần thực hiện những chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam,” cựu Lãnh sự Việt Nam tại Thụy Sỹ, nguyên Vụ Phó Bộ Ngoại giao, ông Đặng Xương Hùng nói.
“Trong đó không chế về mặt đối ngoại, khống chế về mặt tổ chức nhân sự cũng như cơ cấu nhà nước của Việt Nam, làm sao có lợi nhất đối với Trung Quốc.”
Theo cựu quan chức ngoại giao nay đang tị nạn chính trị ở Thụy Sỹ, việc này tạo thành một hội chứng đáng kể mà theo ông:
“Bất cứ nhân vật nào lên đều không dám đụng tới Trung Quốc và không dám nói nhiều, không dám đứng ra như dạng ông Nguyễn Cơ Thạch đã đứng ra công khai chống lại việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (đặt dưới các điều kiện bất lợi cho Việt Nam) thì sẽ bị ‘xử lý’.
“Nhiều nhân vật sau này, khi đụng chạm đến vấn đề Trung Quốc, khi đụng chạm giải quyết vấn đề biên giới cũng như vấn đề biên giới, cũng như những vấn đề về tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông cũng như thế, đều có những dấu hiệu của hội chứng Nguyễn Cơ Thạch.
“Tức là rất sợ những ý kiến cả nhân của mình về vấn đề quan hệ với Trung Quốc… rất sợ Trung Quốc sẽ xử lý qua việc khống chế lãnh đạo cao nhất của Việt Nam và làm ảnh hưởng đến chức vụ của mình với những quyền lợi và lợi ích của mình trong cơ cấu nhà nước.”
‘Can thiệp nhân sự?’

Cũng hôm 17/10, khi được hỏi có thể có một khả năng tác động sâu và cao như vậy từ phía Trung Quốc vào nhân sự lãnh đạo của Việt Nam hay không, thông qua trường hợp được cho là đã xảy ra với cố Ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch, PGS Vũ Quang Hiển từ Đại học Quốc gia Hà Nội bình luận thêm:
“Cách gây sức ép của Trung Quốc trên tất cả các mặt, kể cả về mặt nhân sự nếu như Trung Quốc có thủ đoạn như vậy, tôi nghĩ là hoàn toàn có thể có.
“Nhưng vấn đề đặt ra là ví dụ nhân sự như ông Nguyễn Cơ Thạch mà Trung Quốc không thích bởi vì sao? Nguyễn Cơ Thạch có thể có quan niệm đối ngoại khác, nó rộng mở hơn, nó thoáng hơn, mà người Trung Quốc không muốn Việt Nam có một nhân vật như vậy ở trong giới lãnh đạo cao cấp.
“Có thể họ gây sức ép đòi hỏi không nên như vậy, không nên thế nọ, không nên thế kia, cái điều đó người Trung Quốc có thể làm lắm, tôi cũng tin là người Trung Quốc có thể làm các điều này.
“Tức là về mặt nào đấy có thể nói là họ muốn can thiệp vào vấn đề nhân sự của riêng Việt Nam.
“Nhưng về phía Việt Nam, ai là người thay ông Nguyễn Cơ Thạch, và người đó có làm theo ý đồ của Trung Quốc hay không?
“Đấy lại là một việc khác và người Trung Quốc không thể lãnh đạo, không thể chỉ đạo việc đó được,” sử gia chuyên về lịch sử Đảng từ Đại học Quốc gia Hà Nội nêu quan điểm.
Hôm 15/10, một quan chức Vụ trưởng, thuộc Ban Dân vận Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nói đang có yêu cầu công khai ra Quốc hội Việt Nam về Hội nghị Thành Đô, ngay cả trước khi có một tài liệu được cho là của Ban tuyên huấn Trung ương của Đảng về Hội nghị được loan truyền trên mạng Internet.
“Văn bản của Ban Tuyên giáo… thì nó có thật đấy. Họ đưa ra để giải thích vấn đề Thành Đô.
“Nhưng chúng tôi hoài nghi sự giải thích đấy ở chỗ không biết là có đến nơi, đến chốn không.
“Và chúng tôi đang muốn là Quốc hội phải thành lập một Ủy ban nghiên cứu và bạch hóa vấn đề này,” ông Nguyễn Khắc Mai nói với BBC từ Hà Nội.
—
(*) Ghi chú của Ba Sàm: Về vấn đề bình thường hóa quan hệ Việt-Trung, Hội nghị Thành Đô, trang Ba Sàm (cũ) và phụ trương là trang Việt sử ký/ Chép sử Việt đã từng đăng một số bài liên quan. Đặc biệt trong đó, để rộng đường dư luận, phục vụ việc nghiên cứu, có cả bài của các tác giả là lãnh đạo ĐCS Trung Quốc. Xin giới thiệu thêm ở đây:
+ NHẬT KÍ LÝ BẰNG TIẾT LỘ ĐẦU ĐUÔI CHUYỆN BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ TRUNG-VIỆT NĂM 1990
+ GIẢI MẬT: TRẢI NGHIỆM CHUYỆN BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ TRUNG-VIỆT VÀO THẬP NIÊN 1990
+ CỰU ĐẠI SỨ TQ TỪNG NHƯ THƯ KÝ RIÊNG VÀ Ở BÊN HỒ CHÍ MINH ĐẾN CUỐI ĐỜI
+ ĐẦU ĐUÔI CHUYỆN ĐOÀN CỐ VẤN QUÂN SỰ TRUNG QUỐC GIÚP VIỆT NAM CHỐNG PHÁP